Mấy hôm trước, trong chuyến lên Lũng Cú (Tuyên Quang), chúng tôi dừng chân nghỉ lại ở khu homestay Lô Lô Chải. Từ ban công ngôi nhà gỗ nhìn lên phía cột cờ Lũng Cú, lá cờ 54m2 tung bay phần phật trong gió. Buổi sáng, khi leo lên đây cùng với dòng người khắp nơi đang về chiêm bái cực Bắc, tôi nhận ra khi leo lên đỉnh cột, ai cũng muốn ôm lấy lá cờ và hôn lên sắc đỏ của dòng máu nghìn năm giữ nước. Trong rất nhiều bài báo đã viết về biên viễn, cột cờ Lũng Cú luôn gợi trong tôi nguồn cảm hứng về tinh thần vệ quốc.

1 Nhìn lá cờ kiêu hãnh bay trên biên cương tôi chợt nhớ câu chuyện về những lá cờ Tổ quốc vô cùng cảm động dọc dài theo biên ải. Năm ngoái, sau bão Yagi, chúng tôi lên Quan Dín Ngài (nay thuộc xã Bắc Hà, tỉnh Lào Cai) khảo sát các điểm trường bị thiệt hại để xây cho các em một điểm trường mới. Khi vào những làng bản heo hút ấy, chúng tôi chợt nhớ câu chuyện mà ông Giàng Seo Phử (Bộ trưởng Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc - ông đã mất vào năm 2017) đã kể cho nhiều người nghe khi ông còn là Bí thư Huyện ủy Bắc Hà.

Đấy là những năm 80 của thế kỷ trước, trong một lần xuống một xã hẻo lánh nhất của huyện nhân ngày Quốc khánh 2/9. Xã lại đưa xuống một bản xa nhất để dự lễ chào cờ 2/9. Cờ Tổ quốc trên các bản còn ít lắm vì vải không có, thường mỗi bản có một lá, có bản không có cờ. Thông thường khi cán bộ xã xuống bản dự lễ thì mang quốc kỳ theo.

Câu chuyện của những năm 80 gian khó, khi dân bản nơi heo hút chào cờ, dù không có cờ vẫn quay mặt về phía Thủ đô không hiểu sao cứ thao thức trong tôi, để suốt bao nhiêu năm qua, cứ mỗi lần lên với những bản làng biên ải việc đầu tiên luôn là để mắt tìm những lá cờ đỏ sao vàng ấm áp giữa trời mây sông núi.

Hôm đó cán bộ xã quên không mang. Đến nơi thấy trưởng bản trao đổi với cán bộ xã vài câu rồi ra hô to: “Mọi người tập họp. Nghiêm, đằng sau quay, chào cờ, chào!”. Mọi người đứng nghiêm, chào cờ! Sau đó trưởng bản hô mọi người quay lại nghe Bí thư phát biểu chúc mừng Quốc khánh. Xong việc ông Phử hỏi trưởng bản: “Sao lại đằng sau quay và chào cờ?”. Trưởng bản trả lời: “Lần trước tỉnh cho các trưởng bản có thành tích về Hà Nội thăm Lăng Bác, thấy cái cờ to quá, tao kêu lên: “Trời ơi, cái cờ to quá!”. Thằng cán bộ dẫn đi bảo: “Đó là cờ chung cả nước, phải to rồi”. Bản tao chưa có cờ, nên mỗi lần chào cờ dân bản tao đều nhìn về hướng đó, hướng Hà Nội mà, nhìn về cờ chung mà!”.

Ông Võ Hồng Phúc, nguyên Bộ trưởng Kế hoạch và Đầu tư - đã nhớ lại rằng ông được ông Giàng Seo Phử kể câu chuyện này cũng đúng vào Quốc khánh, hôm ấy ông tháp tùng Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch nhà nước Phan Văn Khải (sau này là Thủ tướng Chính phủ) đi lên đây vào dịp 2/9/1990. Nghe ông Phử kể xong ai nấy vừa cười vừa ứa nước mắt. Ông Sáu Khải nghe xong chỉ nói một câu: “Dân như thế đấy, làm sao đừng phụ lòng dân”.

Câu chuyện của những năm 80 gian khó, khi dân bản nơi heo hút chào cờ, dù không có cờ vẫn quay mặt về phía Thủ đô không hiểu sao cứ thao thức trong tôi, để suốt bao nhiêu năm qua, cứ mỗi lần lên với những bản làng biên ải việc đầu tiên luôn là để mắt tìm những lá cờ đỏ sao vàng ấm áp giữa trời mây sông núi.

Cột cờ Lũng Cú.

Cột cờ Lũng Cú.

Câu khẩu hiệu “Không có gì quý hơn Độc lập - Tự do” trên cổng một nhà dân ở Quảng Nam

Câu khẩu hiệu “Không có gì quý hơn Độc lập - Tự do” trên cổng một nhà dân ở Quảng Nam

2 Câu chuyện về tình yêu Tổ quốc phía biên ải lay động đến vậy khiến tôi lại nhớ trong một lần về với vùng đất Nam Ô dưới chân đèo Hải Vân, một đồng nghiệp đã hỏi: Anh đi qua nhiều vùng quê của nước như vậy nhưng đã bao giờ thấy trong đình làng nào có bức hoành phi treo hai chữ “Tổ quốc” trên gian thờ chính điện chưa? Đình làng thì làng quê nào cũng có. Trên chính điện ngôi đình nào mà chẳng có bức hoành phi sơn son thếp vàng ghi những đại tự mang ý nghĩa ca ngợi công đức tiền nhân hay xưng tụng đạo lý nghĩa, nhân, trung, hiếu. Nhưng chỉ ở đình làng Xuân Dương này, có thể khẳng định đây là bức hoành phi duy nhất trong các đình làng cả nước lại ghi hai chữ “Tổ quốc” để phụng thờ!

Những người dân ở Xuân Dương đã kể nhiều sự tích về bức hoành phi có mang hai chữ “Tổ quốc” này, nhưng điều kỳ diệu nhất là với hai chữ linh thiêng ấy, ngôi đình đã đứng vững qua bao bom đạn chiến tranh. Những năm chống Mỹ, khi mở rộng sân bay Đà Nẵng, nhà thầu đã định mua cả dãy núi đá của làng để khai thác vật liệu xây dựng. Nhưng chỉ vào bức hoành phi có hai chữ “Tổ quốc”, các bậc cao niên của làng đã cản được sự xâm phạm ấy, bởi Tổ quốc là trên hết, không ai được đụng vào!

Đình làng Xuân Dương với bức hoành phi có hai chữ "Tổ quốc".

Đình làng Xuân Dương với bức hoành phi có hai chữ "Tổ quốc".

Từ ngôi làng dưới chân đèo Hải Vân ấy, câu chuyện về tình yêu Tổ quốc của người xứ Quảng níu tôi về với một thiên tuyệt bút về mảnh đất này của nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường: “Tổ quốc đã trao cho Quảng Nam một cửa biển và một thanh kiếm. Cầm lưỡi gươm thân phụ lưu truyền, sáu bảy trăm năm đứng tấn nơi hải khẩu chiến lược, người Quảng Nam chưa bao giờ thiếu sót trong bản lĩnh bảo vệ Tổ quốc. Trên từng dòng quốc sử, đấy là điều khẳng định”. Đó là những dòng cuối trong bút ký: Rượu hồng đào chưa nhắm đã say được ông viết đúng dịp 50 năm Quốc khánh - năm 1995.

Không nhớ tôi đã đi đi về về với xứ Quảng bao nhiêu lần, và chưa bao giờ hết ngạc nhiên về cách mà người xứ Quảng ứng xử với Tự do và Độc lập, ứng xử với Tổ quốc thân yêu.

Ba mươi năm trước, khi đọc những trang bút ký về xứ Quảng của nhà văn mà mình yêu thích, tôi đã tìm về xã Bình Dương của huyện Thăng Bình (mới đây xã Bình Dương đã sáp nhập thêm với vài xã khác để trở thành một xã mới thuộc thành phố Đà Nẵng, nhưng cho phép tôi được nhắc trong bài theo những địa danh ngày cũ). Sau những ngày về Thăng Bình công tác, bài báo Bình Dương cát đỏ của tôi, được đăng trên báo Tuổi trẻ, như một tri ân với những hy sinh của người dân nơi đây.

Ba mươi năm trước, năm 1995, cả một vùng chang chang cát trắng, và người dân vẫn quần quật mưu sinh trong nhọc nhằn dù ngọn gió hòa bình đã thổi qua miền gió cát này được 20 năm. Rồi hơn 10 năm sau đó, tháng 5/2006 tôi lại về Thăng Bình, về ngay xã Bình Minh để viết về những đời dân làng chài và trận bão Chanchu cướp đi gần 100 ngư dân của làng chài nơi chân sóng. Rồi thêm nhiều lần trở lại vùng đất này, tôi chợt nhận ra người dân nơi đây luôn tự nhắc nhở mình về Tổ quốc: Trên mỗi cổng nhà ở thôn quê (chứ không phải cổng chào hay cổng làng) luôn là câu khẩu hiệu ghi lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Có chiếc cổng với câu khẩu hiệu chữ nhũ kim khắc trên đá granit đen, có khi chỉ là một mảnh tôn vuông vức kẻ lên đó câu khẩu hiệu bằng sơn đầy trân trọng và nắn nót.

Với người dân Bình Dương, “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” không chỉ là khẩu hiệu! Đó là máu xương của hàng nghìn người dân giữa chơ vơ cát trắng, trần thân đánh giặc giữ làng.

Với người dân Bình Dương, “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” không chỉ là khẩu hiệu! Đó là máu xương của hàng nghìn người dân giữa chơ vơ cát trắng, trần thân đánh giặc giữ làng. Một cái xã chỉ cát và cát, những năm chiến tranh dân số chưa đến 5.000 người, vậy mà đi qua hết cuộc chiến tranh, Bình Dương có tới 1.367 liệt sĩ và 272 Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, 80% dân số xã là nạn nhân chiến tranh. Bình Dương là xã đã ba lần được phong Anh hùng, hai lần Anh hùng Lực lượng vũ trang trong chiến tranh và một lần Anh hùng Lao động sau ngày hòa bình (1985). Dù chiến tranh hay hòa bình, thì nơi đây, danh hiệu Anh hùng ấy đều đổi bằng máu, mồ hôi và nước mắt của người dân Bình Dương. Đổ ra để giành lại điều quý giá nhất: Độc lập và Tự do khắc trên câu khẩu hiệu trên cổng nhà.

Vùng cát duyên hải Quảng Nam xưa, nay đã thay da đổi thịt quá nhiều. Những đô thị đã mọc lên, con đường qua những làng cát đã thảm nhựa rợp bóng dừa, bóng phi lao, nhưng câu khẩu hiệu vẫn còn lưu lại như thế.

Mỗi ngày khi bước chân ra ngõ hay lúc trở về nhà, trong mắt họ luôn hiện lên dòng chữ thiêng liêng ấy: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”!

Trình bày: Ngô Hương