Trồng lúa giảm phát thải, giảm chi phí đầu vào, năng suất lúa chất lượng cao, ít sâu bệnh là hướng đi canh tác lúa bền vững của ngành nông nghiệp những năm qua. Để tăng chất lượng gạo thơm, ngon cơm, có tính cạnh tranh trên thị trường, việc nghiên cứu, lai tạo, sản xuất những giống lúa tốt, thích hợp thổ nhưỡng, kháng sâu bệnh là nhiệm vụ quan trọng nhất với các viện nghiên cứu và doanh nghiệp lúa gạo.
Tiến sĩ Trần Ngọc Thạch, Viện trưởng Viện Lúa đồng bằng sông Cửu Long đã có những chia sẻ với phóng viên Báo Nhân Dân về nhiệm vụ quan trọng này trên hành trình đồng hành cùng bà con canh tác lúa giảm phát thải.
Phóng viên: Trong hành trình gần 50 năm qua, Viện Lúa đồng bằng sông Cửu Long đã có những nghiên cứu cụ thể nào và hỗ trợ kỹ thuật thực tiễn thành công giúp bà con có được giống lúa cạnh tranh với thị trường lúa gạo, tạo sinh kế bền vững?
Tiến sĩ Trần Ngọc Thạch: Viện Lúa đồng bằng sông Cửu Long là trung tâm nghiên cứu lúa, đóng vai trò nòng cốt trong phát triển giống lúa và cải tiến kỹ thuật canh tác ở đồng bằng sông Cửu Long, góp phần nâng tầm thương hiệu gạo Việt trên thị trường toàn cầu trong thời gian qua.
Hoạt động nổi bật của Viện nằm ở 2 nhiệm vụ chính: Một là, lai tạo, chọn lọc và phát triển các giống lúa chất lượng cao, thơm ngon, có giá trị xuất khẩu; tạo ra giống chịu mặn, chịu hạn, kháng sâu bệnh, thích nghi tốt với điều kiện khí hậu biến đổi và thổ nhưỡng ở vùng đồng bằng sông Cửu Long. Hai là, nghiên cứu các quy trình canh tác lúa hiệu quả, bền vững, tiết kiệm nước, giảm phát thải.
Viện Lúa đồng bằng sông Cửu Long là trung tâm nghiên cứu lúa, đóng vai trò nòng cốt trong phát triển giống lúa và cải tiến kỹ thuật canh tác ở đồng bằng sông Cửu Long, góp phần nâng tầm thương hiệu gạo Việt trên thị trường toàn cầu trong thời gian qua.
Giai đoạn đầu, Viện chủ yếu thu thập giống lúa mùa, cải tiến và làm thuần để bà con tiếp tục gieo trồng, thu thập nguồn gene, đánh giá sâu bệnh và cải tiến các mô hình canh tác lúa. Từ năm 1980, với sự đào tạo của chuyên gia Ấn Độ, Viện mới bắt đầu xây dựng chương trình nghiên cứu chọn giống lúa của riêng mình. Từ năm 1990, từ nguồn lúa nhập nội và giống địa phương, Viện thành công trong việc lai tạo ra các giống lúa ngắn ngày và có tiềm năng năng xuất cao, phù hợp cho việc tránh lũ. Từ đây, Viện cũng hình thành giống lúa OM chỉ trồng trong 85-90 ngày, năng suất 5-6 tấn/ha, thời gian sinh trưởng ngắn, đóng vai trò rất lớn với ngành lúa gạo Việt Nam trước năm 2000.
Trong giai đoạn này, Viện cũng lai tạo ra nhiều giống lúa có khả năng chống chịu sâu bệnh, phèn, măn và khô hạn. Một số giống lúa như OM6976, OM4900…. đã đưa vào sản xuất có hàm lương sắt và hàm lượng kẽm trong gạo cao, đã giúp cải thiện sức khỏe cho người tiêu dùng trong thời gian qua.
Trong giai đoạn hiện tại, uy tín của gạo Việt Nam đang được cải thiện rất nhiều, giá xuất khẩu không ngừng được cải thiện và cạnh tranh với gạo Thái Lan ở cùng phân khúc. Trong thương mại lúa gạo khoảng 50 triệu tấn/năm trên thế giới, phân khúc gạo trắng, hạt dài chiếm 60-70%, và Việt Nam đang chiếm ưu thế ở phân khúc gạo trắng, hạt dài với các giống lúa như OM18, OM5451, Đài thơm 8...
Trong 8 triệu tấn gạo xuất khẩu của Việt Nam, 95% là phân khúc gạo trắng, hạt dài, nếp và gạo Nhật, còn phân khúc gạo cao cấp bán trên 1.000 USD như các chủng loại ST còn khá khiêm tốn và chiếm ưu thế là các chủng loại gạo basmati của ẤN Độ và Pakistan, gạo thơm Lài của Thái Lan rất ít. Hiện nay, các giống lúa thuộc phân khúc gạo trắng, hạt dài của Việt Nam như OM5451, OM18, Jasmine 85… đang được người nông dân ở Campuchia và Thái Lan gieo trồng rất nhiều.
Hiện nay, chúng ta cố gắng tập trung giữ thị trường giống gạo hạt dài, trắng, thơm. Với vòng đời của giống chỉ khoảng 10 năm, chúng tôi phải tạo ra giống liên tục có phẩm chất tương đương và cao hơn, có khả năng kháng sâu bệnh tốt hơn để thay thế. Bên cạnh đó, chúng ta cũng tạo ra giống mới để đáp ứng nhu cầu rất đa dạng của thị trường trong nước và xuất khẩu.
Chúng tôi tiếp tục lai tạo giống lúa thơm và đang tiếp tục hoàn thiện để chất lượng gạo hoàn thiện hơn, năng suất cao hơn.
Ngoài ra, chúng ta cũng chú ý tới phân khúc gạo để làm nguyên liệu chế biến. Có giai đoạn chúng ta phải nhập gạo từ Ấn Độ vì đây là phân khúc ít được chú ý trồng. Hiện Viện cũng cố gắng lai tạo giống lúa phục vụ chế biến nhưng thay vì bù lại giá trị, ta sẽ bù về năng suất để người trồng lúa vẫn bảo đảm thu nhập.
Về phân khúc gạo nếp, có giai đoạn chúng ta xuất khẩu 1,5 triệu tấn nếp, nhưng hiện nay vẫn sử dụng nguồn giống nếp cũ, cần phải tiếp tục quan tâm cải tiến thêm.
Với gạo Nhật DS1 hiện trồng khá nhiều ở đồng bằng sông Cửu Long và có thị trường. Tuy nhiên, đây là giống trồng dài ngày và bộc lộ điểm yếu nên chúng tôi cũng đang tìm cách lai tạo giống Nhật mới, phù hợp hơn cho vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Trong chiến lược nghiên cứu, Viện Lúa đồng bằng sông Cửu Long quan tâm giá trị dinh dưỡng của lúa giống.
Trong chiến lược nghiên cứu, Viện Lúa đồng bằng sông Cửu Long quan tâm giá trị dinh dưỡng của lúa giống. Giống lúa trong sản xuất có hàm lượng sắt, kẽm cao như trong OM5451, OM6976…. bổ sung dinh dưỡng rất tốt, nhưng các giống lúa này đã giảm dần trong sản xuất vì bị nhiễm sâu bệnh. Trên nền tảng đó, Viện cũng nghiên cứu giống lúa cải thiện các giống này và lai tạo mới các giống có vi chất dinh dưỡng và sắc tố cao và có chỉ số đường huyết thấp để bảo đảm tăng cường sức khỏe cho người tiêu dùng.
Trong chương trình lai tạo giống, đa dạng hóa mục tiêu, chúng ta vẫn giữ giống lúa chủ lực và tiếp tục khai thác cho thị trường phân khúc gạo thấp, khối lượng ít nhưng giá trị cao, phục vụ cho sản xuất gạo tiêu thụ nội địa cho chủ động để không đồng bằng sông Cửu Long không thụ động về giống.
Tiến sĩ Trần Ngọc Thạch, Viện trưởng Viện Lúa đồng bằng sông Cửu Long đồng hành cùng bà con canh tác lúa giảm phát thải.
Phóng viên: Biến đổi khí hậu tạo ra thách thức gì với bà con trong việc chọn giống gạo thích ứng với thổ nhưỡng và sự cực đoan của thời tiết?
Tiến sĩ Trần Ngọc Thạch: Rủi ro trong biến đổi khí hậu tại đồng bằng sông Cửu Long hiện nay là mưa thường xuyên, hạn hán, xâm nhập mặn, thời tiết cực đoan nóng làm ảnh hưởng cả năng suất và chất lượng gạo.
Mưa thường xuyên sẽ làm cây bị đổ gẫy trong quá trình trổ bông, hạt gạo lép. Thời tiết cực đoan nóng làm ảnh hưởng tới cả năng suất và phẩm chất gạo, gạo bị bạc bụng và bị gẫy trong quá trình xay chà.
Cây lúa mẫn cảm ở ở giai đoạn mạ- đẻ nhánh và trổ bông-chín, cho nên trong nghiên cứu chọn tạo giống lúa chịu mặn cũng phải chọn tạo giống lúa phù hợp cho từng vùng sinh thái ở đồng bằng sông Cửu Long, thí dụ: khu vực cơ cấu trồng lúa-tôm thì đòi hỏi giống lúa phải chống chịu mặn chủ yếu ở giai đoạn mạ- đẻ nhánh, còn vùng có nguy cơ bị xâm nhập mặn thì đòi hỏi có khả năng chống chịu mặn ở giai đoạn trổ bông- chín, còn nếu chọn được giống lúa chống chịu mặn ở cả hai giai đoạn là rất tốt.
Sau chu kỳ 5 năm, chúng tôi sẽ đánh giá lại khả năng kháng sâu bệnh hại của các giống lúa được gieo trồng trong sản xuất. Vì thực tế, khi công nhận đưa vào sản xuất, giống ban đầu đều đáp ứng với yêu cầu kháng sâu bệnh hại chínht, nhưng sau một thời gian trong sản xuất với tần xuất trong 2-3 vụ/năm sâu bệnh thích nghi dần và sẽ tấn công các giống lúa kháng ban đầu. Do đó, chúng tôi phải có giải pháp quản lý dịch hại phù hợp để kéo dài tính kháng sâu bệnh của giống lúa và đồng thời cũng có giải pháp lai cải tiến tính kháng của giống thông qua các kỹ thuật như lai tích hợp gene kháng hoặc chỉnh sửa gene kháng để có kháng phổ rộng hơn.
Hạn hán, xâm nhập mặn, thời tiết cực đoan nóng làm ảnh hưởng cả năng suất và chất lượng gạo.
Hạn hán, xâm nhập mặn, thời tiết cực đoan nóng làm ảnh hưởng cả năng suất và chất lượng gạo.
Giống lúa tồn tại từ khi lưu hành cho đến khi suy thoái khoảng 5-10 năm phải tiếp tục gia cố khả năng chống chịu sâu bệnh của giống lúa. Nên trong công tác chọn giống có 2 hướng: Một là cải tiến khà năng kháng sâu bệnh và điều kiện bất thuận của môi trường (hạn, mặn, nhiệt độ cao….) cho những giống có giá trị đang phổ biến để giữ phẩm chất giống lúa cũ trên thị trường; Hai là, lai tạo mới hoàn toàn giống lúa khác về đặc tính sinh học, hình thái khác hoàn toàn, có tiềm năng năng suất cao hơn, phẩm chất gạo tốt hơn và khả năng kháng sâu bệnh và chống chịu tốt hơn với điều kiện bất thuận của môi trường.
Phóng viên: Khu vực đồng bằng sông Cửu Long đã chủ động được lúa giống phục vụ cho canh tác và những giống này có sức cạnh tranh trên thị trường lúa gạo không?
Tiến sĩ Trần Ngọc Thạch: Theo số liệu báo cáo mới nhất (2024), hiện ở đồng bằng sông Cửu Long có khoảng 70 giống được gieo trồng, giống có diện tích trên 1.000ha/năm có khoảng 40 giống, trên 10.000ha/năm có khoảng 20 giống, trên 50.000 ha/năm có khoảng 10-15 giống và trên 100.000ha/năm chỉ có 5 giống, như vậy cơ cấu giống khá tập trung. Trong 5 giống chủ lực thì 3 giống thuộc phân khúc gạo trắng chiếm 65,2% diện tích gieo trồng hằng năm (OM18: 1.015.000ha, Đài Thơm 8: 780.000ha và OM5451: 635.000ha), còn lại là nếp IR4625 (265.000ha, chiếm 7,1% diện tích gieo trồng) và giống lúa Nhật DS1 (145.000ha, chiếm 3,91% diện tích gieo trồng).
Nhìn vào cơ cấu này, chúng ta thấy phân khúc gạo thơm như nhóm giống ST, Jasmine 85 và Nàng Hoa 9…, cùng với nhóm gạo chế biến và dinh dưỡng chỉ chiếm dưới 25%. Đây là vấn đề chúng ta cần quan tâm để làm sao tăng nhóm gạo có giá trị kinh tế cao cho thị trường trong nước và xuất khẩu.
Phóng viên: Trong tương lai, giống lúa của chúng ta có gì thay đổi hay không?
Tiến sĩ Trần Ngọc Thạch: Sau năm 2010, chúng tôi đẩy mạnh tạo giống lúa theo phân khúc nhu cầu của thị trường, ngoài chuyện mặc nhiên giống được công nhận phải có khả năng kháng được sâu bệnh ở mức chấp nhận được cho từng đối tượng.
Đối với một số vùng có nguy cơ bị xâm nhập mặn, chúng tôi sẽ bổ sung thêm khả năng chống chịu mặn-hạn cho giống lúa, để giảm rủi ro thiệt hại khi canh tác.
Về năng suất, chúng ta hầu như đạt ngưỡng năng suất khá cao, khó vượt qua được con số 8-9 tấn/ha nếu không có đầu tư nghiên cứu cơ bản và cách tiếp cận khác trong nghiên cứu. Do đó, hiện nay, chúng tôi lấy phẩm chất gạo làm định hướng để nghiên cứu để nâng cao giá trị cho hạt gạo.
Theo đó, chúng tôi nghiên cứu tiêu chí đạt về độ ngon của cơm, giá trị dinh dưỡng, cảm quan của người tiêu dùng, chi phí trồng thấp, năng suất cao.
Phóng viên: Biến đổi khí hậu như xâm nhập mặn, thời tiết thay đổi thất thường cũng như thói quen canh tác lạm dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật đã ảnh hưởng đến sản xuất lúa gạo tại đồng bằng sông Cửu Long, đòi hỏi phải có phương thức canh tác giảm phát thải. Đây là một bài toán với ngành lúa đã được khuyến cáo như thế nào?
Tiến sĩ Trần Ngọc Thạch: Trong sản xuất nông nghiệp, dư địa giảm phát thải nhiều nhất trong sản xuất lúa gạo, chiếm tới 50%. Lúa trong điều kiện ngập sẽ phát ra nhiều khí methane. Vì thế, hiện nay trong Đề án 1 triệu ha lúa và nhiều nơi khác, công nghệ quản lý nước như tưới ngập-khô xen kẽ được sử dụng để giảm lượng khí methane.
Ngoài ra, các giải pháp gieo sạ giảm lúa giống, giảm phân bón, giảm thuốc bảo vệ thực vật… giúp giảm chi phí đầu vào và giảm phát thải. Sau khi thu hoạch, với rơm rạ thay vì vùi xuống đất tạo khí methane thì được khuyến cáo thu gom rơm rạ theo kinh tế tuần hoàn như trồng nấm, chế biến lại giáp thể để gia tăng thu nhập và giá thể sau khi trồng nấm có thể chế biến làm phân bón cho cây trồng.
Hiện nay, Viện cũng đã triển khai nhiều hợp tác nghiên cứu để tìm giải pháp khác góp phần giảm phát thải trong sản xuất lúa, ví dụ như giống, vi sinh vật,…..
Xin cảm ơn Tiến sĩ Trần Ngọc Thạch!
Ngày xuất bản: 10/10/2025
Thực hiện: HỒNG MINH - THẢO LÊ - THIÊN LAM
Ảnh: THANH PHONG
Trình bày: NGỌC BÍCH