Phát triển kinh tế biển xanh không chỉ mở ra không gian tăng trưởng mới cho Việt Nam mà còn là giải pháp then chốt để cân bằng giữa phát triển kinh tế, bảo vệ môi trường và ứng phó biến đổi khí hậu, góp phần thực hiện cam kết đạt mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050.

Phóng viên Báo Nhân Dân đã có cuộc trao đổi với Tiến sĩ Tạ Đình Thi, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội về những định hướng, giải pháp nhằm hiện thực hóa mục tiêu chiến lược này trong giai đoạn mới.

Phóng viên: Nước ta vừa thực hiện việc sáp nhập địa giới hành chính, trong đó giảm số tỉnh có biển từ 28 xuống 21. Điều này sẽ tác động như thế nào đến chiến lược phát triển kinh tế biển xanh quốc gia, thưa ông?

Phó Chủ nhiệm Tạ Đình Thi: Việc sáp nhập địa giới hành chính vừa qua theo chủ trương của Đảng, đặc biệt là Nghị quyết 202/2025/QH15 ngày 12/6/2025 của Quốc hội về việc sáp nhập các đơn vị hành chính cấp tỉnh, từ 63 tỉnh, thành phố thành 34 tỉnh, thành phố, trong đó số lượng tỉnh, thành phố có biển tuy giảm về con số tuyệt đối (từ 28 thành 21), nhưng đã tăng về tỷ lệ tương đối (từ 28/63 (tương đương 44%) lên 21/34 đơn vị (tương đương 62%)). Điều này có ý nghĩa chiến lược, góp phần mở rộng không gian kiến tạo và phát triển bền vững kinh tế biển trên cả ba mặt: nhận thức và hiểu biết về biển; bảo vệ biển, tiến ra biển, làm chủ biển; khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên, môi trường, không gian biển.

Sau khi sáp nhập địa giới hành chính, hiện chúng ta có 21/34 tỉnh thành phố có biển.

Sau khi sáp nhập địa giới hành chính, hiện chúng ta có 21/34 tỉnh thành phố có biển.

Các tác động tích cực có thể kể đến như tăng cường liên kết vùng, tạo thành một không gian đất liền và biển kết nối với nhau rộng lớn hơn, tối ưu hóa nguồn lực, giảm chồng chéo trong công tác quy hoạch, nâng cao hiệu quả quản trị biển, thu hút đầu tư vào hạ tầng xanh, năng lượng tái tạo và các ngành nghề kinh tế biển khác... Đặc biệt, việc tăng số tỉnh có biển sẽ tạo cơ hội để các địa phương phối hợp chặt chẽ hơn trong triển khai Quy hoạch không gian biển quốc gia thời kỳ 2021–2030, tầm nhìn 2050 (được Quốc hội thông qua tại Nghị quyết 139/2024/QH15). Đây là nền tảng quan trọng giúp các bộ, ngành, địa phương có biển tích hợp vào quy hoạch ngành, quy hoạch vùng và quy hoạch tỉnh, tránh chồng chéo và tối ưu hóa nguồn lực, hướng tới mục tiêu quản lý tổng hợp vùng bờ và xây dựng nền kinh tế biển nhanh và bền vững.

Phát triển kinh tế biển xanh không chỉ mở ra không gian tăng trưởng mới cho Việt Nam mà còn là giải pháp then chốt để cân bằng giữa phát triển kinh tế, bảo vệ môi trường và ứng phó biến đổi khí hậu...

Phát triển kinh tế biển xanh không chỉ mở ra không gian tăng trưởng mới cho Việt Nam mà còn là giải pháp then chốt để cân bằng giữa phát triển kinh tế, bảo vệ môi trường và ứng phó biến đổi khí hậu...

Tuy nhiên, bên cạnh những khó khăn, thách thức như chúng ta thường thấy về nhận thức, tài chính, công nghệ, nhân lực và quản trị, hay yếu tố khách quan do tác động tiêu cực từ biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường biển, suy giảm sinh học biển,... thì trong giai đoạn hiện nay chúng ta phải đối mặt những thách thức mới như cần thời gian hoàn thiện và vận hành hiệu quả bộ máy quản lý theo mô hình mới, trong bối cảnh yêu cầu tăng trưởng kinh tế cao, nguy cơ gia tăng áp lực khai thác tài nguyên ngày càng lớn...

Phóng viên: Theo ông, các địa phương có biển cần thực hiện những nhiệm vụ cụ thể nào để bảo đảm phát triển kinh tế biển gắn với bảo vệ môi trường?

Phó Chủ nhiệm Tạ Đình Thi: Để bảo đảm phát triển kinh tế biển gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh, đối ngoại và hợp tác quốc tế, bảo vệ môi trường, nhiệm vụ đặt ra cho các ngành, các cấp, các địa phương có biển là rất lớn khi chúng ta đặt ra mục tiêu tăng trưởng kinh tế cao với tỷ lệ tốc độ 2 con số.

Theo tôi, đối với các địa phương có biển trước mắt cần tập trung vào mấy nhiệm vụ chính cần quan tâm như rà soát, đánh giá và hoàn thiện những nội dung liên quan đến biển và hải đảo trong văn kiện trình Đại hội đảng bộ các cấp của địa phương mình nhằm phát huy tối đa tiềm năng, lợi thế của biển, hải đảo; rà soát, điều chỉnh quy hoạch không gian biển phù hợp với quy hoạch quốc gia; ưu tiên đầu tư hạ tầng xanh, công nghệ cao; tăng cường tuyên truyền, nâng cao nhận thức và đào tạo nguồn nhân lực biển chất lượng cao; đẩy mạnh hợp tác quốc tế, thu hút đầu tư xanh theo tinh thần Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22/10/2018 của Hội nghị Trung ương 8 khóa XII về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 và các nghị quyết khác liên quan.

Theo Tiến sĩ Tạ Đình Thi cũng như các chuyên gia để bảo đảm phát triển kinh tế biển gắn với bảo vệ môi trường, các địa phương có biển cần rà soát, điều chỉnh quy hoạch không gian biển phù hợp với quy hoạch quốc gia...

Theo Tiến sĩ Tạ Đình Thi cũng như các chuyên gia để bảo đảm phát triển kinh tế biển gắn với bảo vệ môi trường, các địa phương có biển cần rà soát, điều chỉnh quy hoạch không gian biển phù hợp với quy hoạch quốc gia...

Song song với đó, các địa phương khẩn trương triển khai thực hiện Bộ chỉ tiêu thống kê quốc gia về biển và hải đảo và Bộ chỉ tiêu đánh giá quốc gia biển mạnh theo quy định tại Thông tư 01/2025/TT-BKHĐT ngày 02/01/2025 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư (nay là Bộ Tài chính) để đo lường kết quả thực hiện, từ đó có căn cứ khoa học và thực tiễn cho việc điều chỉnh chính sách, bảo đảm phát triển bền vững và hướng tới mục tiêu quốc gia biển mạnh.

Mặt khác, phải tăng cường, chủ động thực hiện các cơ chế điều phối liên ngành về phát triển bền vững kinh tế biển đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, trong đó ưu tiên các hoạt động có tác động thấp đến môi trường và bảo vệ hệ sinh thái biển.

Tháo gỡ “nút thắt” để tạo bứt phá

Phóng viên: Vậy, đâu là "nút thắt" lớn nhất cản trở quá trình phát triển kinh tế biển xanh hiện nay, thưa ông?

Phó Chủ nhiệm Tạ Đình Thi: Như tôi đã nêu trên, Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều thách thức trong phát triển kinh tế biển xanh. Nhưng điều quan trọng là chúng ta phải biến thách thức thành cơ hội, xác định được đúng những “nút thắt”, “điểm nghẽn”, để có những biện pháp tháo gỡ kịp thời. Có thể kể ra một số hạn chế, bất cập hiện nay bao gồm: Chưa nhận thức đúng mức về tầm quan trọng của phát triển bền vững kinh tế biển theo đúng yêu cầu tại Nghị quyết 36-NQ/TW; đến nay, chúng ta chưa có định nghĩa có tính pháp lý rõ ràng về kinh tế biển xanh để từ đó xác định được các cơ chế, chính sách phù hợp, nhất là trong việc huy động nguồn lực đầu tư, xác định lộ trình chuyển đổi; công tác điều tra cơ bản tài nguyên, môi trường biển và hải đảo, việc đánh giá các nguồn vốn biển tự nhiên và tiềm năng các ngành kinh tế biển còn nhiều hạn chế, bất cập – có thể thấy chúng ta còn rất thiếu thông tin, số liệu về biển, làm cơ sở cho hoạch định chính sách và phát triển các dự án; những khó khăn, vướng mắc, sự chậm trễ trong triển khai các quy hoạch, chương trình, dự án đã được phê duyệt trong lĩnh vực biển, hải đảo.

Nếu chúng ta không quyết tâm, quyết liệt trong triển khai thì những mục tiêu đề ra tại Nghị quyết 36-NQ/TW khó có thể hoàn thành đúng thời hạn, làm lỡ cơ hội chúng ta vươn lên trở thành quốc gia biển mạnh vào năm 2045.

Coi trọng việc kiến tạo những không gian phát triển mới trong lĩnh vực biển và hải đảo

Thiếu quy định cụ thể về kiểm soát ô nhiễm môi trường biển, đặc biệt là ô nhiễm xuyên biên giới là một trong những khó khăn trong quá trình triển khai, việc thực thi các quy định về bảo vệ môi trường biển và giảm phát thải ở Việt Nam hiện nay.

Thiếu quy định cụ thể về kiểm soát ô nhiễm môi trường biển, đặc biệt là ô nhiễm xuyên biên giới là một trong những khó khăn trong quá trình triển khai, việc thực thi các quy định về bảo vệ môi trường biển và giảm phát thải ở Việt Nam hiện nay.

Phóng viên: Trong quá trình triển khai, việc thực thi các quy định về bảo vệ môi trường biển và giảm phát thải đang gặp những khó khăn gì, thưa ông?

Phó Chủ nhiệm Tạ Đình Thi: Hiện nay, tôi được biết Bộ Nông nghiệp và Môi trường đang tổ chức đánh giá việc thực hiện Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo, từ đó đề xuất việc sửa đổi Luật. Nhưng qua theo dõi, tôi nhận thấy có mấy khó khăn chính bao gồm: Một số quy định không còn phù hợp với thực tiễn, thiếu tính đồng bộ - cần lưu ý là lĩnh vực biển đảo đòi hỏi tính liên ngành, liên vùng rất cao; việc phân cấp, phân quyền cần rà soát, hoàn thiện và thủ tục hành chính cần được cắt giảm, bảo đảm liên thông phù hợp với yêu cầu trong tình hình mới; thiếu quy định cụ thể về kiểm soát ô nhiễm môi trường biển, đặc biệt là ô nhiễm xuyên biên giới; chưa có quy định đầy đủ về quản lý rác thải nhựa biển và nội luật hóa các điều ước quốc tế; năng lực quản lý, quan trắc, giám sát, điều tra cơ bản còn hạn chế, đặc biệt là thiếu nguồn lực tài chính và công nghệ để đầu tư vào cơ sở hạ tầng, thiết bị tiên tiến cho quan trắc, giám sát và xử lý ô nhiễm môi trường biển, thiết lập bộ cơ sở dữ liệu về tài nguyên, môi trường biển và hải đảo; nhận thức và ý thức tuân thủ pháp luật chưa cao.

Tôi lấy ví dụ, hiện nay, các quy định về quản lý rác thải nhựa đại dương hiện mới chỉ ở mức khung, thiếu hướng dẫn cụ thể và chế tài mạnh để xử lý vi phạm. Bên cạnh đó, năng lực quan trắc và giám sát ô nhiễm biển của chúng ta còn hạn chế, chưa đáp ứng được các chuẩn mực theo yêu cầu của Công ước quốc tế về ngăn ngừa ô nhiễm từ tàu biển (Công ước MARPOL). Điều này khiến việc kiểm soát nguồn thải từ tàu biển quốc tế hay ô nhiễm xuyên biên giới còn nhiều bất cập.

Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển của Việt Nam đang được hiện thực hóa bằng những dự án cụ thể tại các địa phương có biển.

Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển của Việt Nam đang được hiện thực hóa bằng những dự án cụ thể tại các địa phương có biển.

Năng lực quản lý, quan trắc, giám sát, điều tra cơ bản còn hạn chế cũng là một trong những khó khăn trong việc thực thi các quy định về bảo vệ môi trường biển và giảm phát thải.

Năng lực quản lý, quan trắc, giám sát, điều tra cơ bản còn hạn chế cũng là một trong những khó khăn trong việc thực thi các quy định về bảo vệ môi trường biển và giảm phát thải.

Kinh tế biển xanh là công cụ chính để xây dựng lại nền kinh tế, tập trung vào việc làm và cơ hội phát triển kinh tế từ đại dương và tài nguyên ven biển.

Kinh tế biển xanh là công cụ chính để xây dựng lại nền kinh tế, tập trung vào việc làm và cơ hội phát triển kinh tế từ đại dương và tài nguyên ven biển.

Phóng viên: Thưa ông, là quốc gia đi sau trong phát triển kinh tế biển, Việt Nam có thể học hỏi những kinh nghiệm gì từ các mô hình, chính sách thành công trên thế giới để thúc đẩy phát triển kinh tế biển xanh?

Phó Chủ nhiệm Tạ Đình Thi: Dù sao thì Việt Nam là quốc gia biển đi sau so với nhiều quốc gia về trình độ phát triển trong nhiều ngành/lĩnh vực kinh tế biển. Do vậy, việc học hỏi kinh nghiệm của các nước đi trước là hết sức cần thiết. Qua nghiên cứu, theo nhiều chuyên gia thì Việt Nam có thể tham khảo các bài học như: nhiều nước điển hình như Hoa Kỳ đã coi kinh tế biển xanh (hay kinh tế xanh lam) là công cụ chính để xây dựng lại nền kinh tế, tập trung vào việc làm và cơ hội phát triển kinh tế từ đại dương và tài nguyên ven biển; Trung Quốc đã phê duyệt các khu vực trình diễn phát triển kinh tế biển toàn quốc, đổi mới trong chuyển đổi phương thức phát triển. Ngoài ra, những bài học rất cần thiết khác như: Tận dụng hỗ trợ khoa học và công nghệ, thúc đẩy hợp tác quốc tế trong quản trị biển; khuyến khích khu vực tư nhân tham gia đầu tư và quản lý, như mô hình điện gió ngoài khơi của Na Uy hay công nghệ xử lý rác thải nhựa của Nhật Bản; lồng ghép tư duy "blue" trong xây dựng thể chế, ưu tiên các cơ hội kinh tế biển xanh và áp dụng quy hoạch không gian biển theo kinh nghiệm của EU.

Học tập kinh nghiệm của một số quốc gia trong khu vực Việt Nam đã áp dụng mô hình đồng quản lý khu bảo tồn biển, trao quyền cho cộng đồng ngư dân địa phương cùng tham gia giám sát và hưởng lợi.

Học tập kinh nghiệm của một số quốc gia trong khu vực Việt Nam đã áp dụng mô hình đồng quản lý khu bảo tồn biển, trao quyền cho cộng đồng ngư dân địa phương cùng tham gia giám sát và hưởng lợi.

Ngoài ra, một số quốc gia trong khu vực như Philippines và Indonesia đã áp dụng mô hình đồng quản lý khu bảo tồn biển, trao quyền cho cộng đồng ngư dân địa phương cùng tham gia giám sát và hưởng lợi. Cách tiếp cận này vừa tăng hiệu quả bảo tồn, vừa tạo sinh kế bền vững, rất phù hợp với điều kiện ven biển Việt Nam.

Trên thực tế, Việt Nam đã có nhiều chủ trương, chính sách rất quan trọng, có tính nền tảng về biển và hải đảo, cụ thể như Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển, Luật Biển Việt Nam, Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo và Quy hoạch không gian biển quốc gia,...

Thời gian tới, chúng ta cần tiếp tục thể chế hóa, cụ thể hóa các chủ trương, chính sách nêu trên; đồng thời, cần tổng kết, đánh giá, học hỏi kinh nghiệm quốc tế để có những điều chỉnh, hoàn thiện kịp thời, đặc biệt coi trọng việc kiến tạo những không gian phát triển mới trong lĩnh vực biển và hải đảo theo đúng chủ trương của Đảng trong giai đoạn hiện nay.

Phát triển kinh tế biển xanh – “bước đi chiến lược” cho mục tiêu Net Zero 2050

Phóng viên: Trong bối cảnh Việt Nam cam kết đạt mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050, kinh tế biển xanh được xem là một trong những động lực quan trọng. Xin ông cho biết vai trò và những đóng góp cụ thể của phát triển kinh tế biển xanh đối với mục tiêu chiến lược này?

Kinh tế biển xanh đóng vai trò quan trọng trong việc giúp Việt Nam đạt mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050.

Kinh tế biển xanh đóng vai trò quan trọng trong việc giúp Việt Nam đạt mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050.

Phó Chủ nhiệm Tạ Đình Thi: Kinh tế biển xanh đóng vai trò quan trọng trong việc giúp Việt Nam đạt mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050, chủ yếu thông qua các phương thức sau: Các hệ sinh thái biển (rừng ngập mặn, thảm cỏ biển) hấp thụ và lưu trữ carbon hiệu quả; phát triển năng lượng tái tạo ngoài khơi (điện gió, sóng, thủy triều) để thay thế nhiên liệu hóa thạch; kết hợp các dự án năng lượng tái tạo với bảo tồn hệ sinh thái, tạo ra tín chỉ carbon và lợi ích kép về kinh tế và môi trường. Ví dụ, theo ước tính của Ngân hàng Thế giới/IFC, tiềm năng điện gió ngoài khơi của Việt Nam có thể đạt 600 GW, gấp nhiều lần nhu cầu điện quốc gia hiện tại. Khai thác tiềm năng này không chỉ thay thế nhiên liệu hóa thạch mà còn tạo ra ngành công nghiệp mới, gắn liền với việc phát triển chuỗi cung ứng trong nước và xuất khẩu thiết bị năng lượng tái tạo. Kinh tế biển xanh được xem là điểm giao thoa giữa thích ứng và giảm nhẹ biến đổi khí hậu.

Bên cạnh việc giảm phát thải, các giải pháp dựa vào thiên nhiên để phát triển kinh tế biển xanh như phục hồi rừng ngập mặn và rạn san hô còn giúp bảo vệ cơ sở hạ tầng ven biển và cộng đồng dân cư khỏi các tác động của biến đổi khí hậu như lũ lụt và nước biển dâng.

Phóng viên: Theo ông, Việt Nam cần định hình chiến lược phát triển kinh tế biển xanh như thế nào để hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường, góp phần hiện thực hoá mục tiêu Net Zero?

Phó Chủ nhiệm Tạ Đình Thi: Để đạt mục tiêu này, chúng ta cần nhìn nhận lại 7 năm thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW để đánh giá và có những kiến nghị với Đảng và Nhà nước xem xét, điều chỉnh một cách phù hợp trong giai đoạn phát triển mới, đặc biệt vào thời điểm chuẩn bị tổ chức Đại hội Đảng bộ các cấp hướng đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng. Mặt khác, cần tiếp tục hoàn thiện hành lang pháp lý cho phát triển kinh tế biển xanh gắn với triển khai “Bộ tứ nghị quyết trụ cột” mà Bộ Chính trị mới ban hành và một Nghị quyết rất mới vừa được Bộ Chính trị thông qua là Nghị quyết số 71-NQ/TW ngày 22/8/2025 về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo; tăng cường điều phối liên ngành, nâng cao hiệu quả phối hợp giữa các cơ quan trong lĩnh vực biển, hải đảo; quản lý, sử dụng hiệu quả các nguồn vốn biển tự nhiên, trong đó cần chú trọng năng lượng tái tạo, các tài nguyên biển khác và bảo vệ hệ sinh thái biển; xây dựng và ban hành cơ chế, chính sách khuyến khích đầu tư vào năng lượng tái tạo và phát triển bền vững.

Một yêu cầu cấp bách hiện nay là cần quan tâm đúng mức việc triển khai Quy hoạch không gian biển quốc gia đã được Quốc hội thông qua, gắn với phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, phát triển giáo dục và đào tạo. Đây chính là công cụ điều phối trọng tâm để giải quyết các xung đột lợi ích giữa các ngành kinh tế biển, nhất là đối với việc khai thác thủy sản, phát triển điện gió ven biển và ngoài khơi, du lịch biển và bảo tồn hệ sinh thái, khai thác dầu khí và các tài nguyên khoáng sản biển khác. Đây sẽ là bước đi chiến lược để hài hòa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường, đồng thời góp phần thực chất vào mục tiêu Net Zero năm 2050.

Phóng viên: Trân trọng cảm ơn ông!

Tổ chức sản xuất: NAM ĐÔNG
Nội dung: THU HẰNG- BÍCH LIÊN
Trình bày: KIM THOA
Ảnh: Tư liệu, Internet
Ngày xuất bản: 16/9/2025