Nhà khoa học với những công trình dấu ấn cho ngành điện ảnh nước nhà

NDO -

NDĐT - Những năm 60 của thế kỷ trước, trong bối cảnh đất nước còn nhiều khó khăn, Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước đã gửi một số lớn học sinh sang các nước XHCN học tập. Trở về nước, nhiều nhà khoa học đã có những đóng góp quan trọng vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và phục hồi kinh tế sau chiến tranh. Trong số những nhà khoa học đó có Phó Giáo sư, Tiến sĩ (PGS, TS) Trần Quang Ngọc với những công trình khoa học kỹ thuật, giải pháp đổi mới công nghệ sáng tạo, hữu ích cho ngành điện ảnh nước nhà.

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trần Quang Ngọc.
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trần Quang Ngọc.

Năm 1960, tốt nghiệp phổ thông, Trần Quang Ngọc thi vào Trường Điện ảnh, được cử đi học Liên Xô; năm 1965 tốt nghiệp Đại học Kỹ sư Điện ảnh Leningrad (nay là Saint Petersburg), được chuyển tiếp làm nghiên cứu sinh, tốt nghiệp Phó TS (nay là TS) khoa học kỹ thuật ngành điện ảnh, năm 1969.

Lúc này cuộc chiến tranh ở miền Nam đang thời kỳ gay go ác liệt. Cơ sở vật chất kỹ thuật ngành điện ảnh nước ta rất nghèo nàn. Vừa tốt nghiệp, TS Ngọc được giao tìm giải pháp giải quyết ngay những vấn đề khoa học kỹ thuật chưa từng có tiền lệ trên thế giới, đặt ra trên thực tế chiến tranh ở Việt Nam.

Những sáng tạo nảy sinh trong gian khó

Thời chiến tranh, các nghệ sĩ vào Nam ra trận như những chiến sĩ; nhiều người đã hy sinh. Điều đau xót là phim quay được bằng xương máu nghệ sĩ, khi chuyển ra Bắc lại bị bom đạn đánh phá làm mất trên đường Trường Sơn. Vấn đề đặt ra là làm sao khắc phục được tình trạng này. Giải pháp hữu hiệu là in phim ngay tại chiến trường, gửi ra Bắc cho đến khi nhận được.

Thiết bị in phim thường nặng hàng trăm kg, cần buồng tối, điện, đèn và nhiều thiết bị phục vụ. Đưa máy vượt Trường Sơn là chuyện khó, sử dụng thiết bị nặng, trên chiến trường cài răng lược luôn biến động còn khó hơn.

Tiến sĩ Ngọc đã chế tạo một máy in đặc biệt, đủ tính năng cơ bản để in phim, không cần điện, đèn, buồng tối và thiết bị phục vụ phức tạp. Máy nặng khoảng 4 kg; đã vào Nam in được nhiều phim. Máy in phim chiến trường hoạt động tốt đến ngày chiến thắng. Trên thế giới không đâu có máy in phim như vậy.

Chính quyền miền Nam không kiểm duyệt phim nghiệp dư 8 mm. Lãnh đạo Đảng, Nhà nước chủ trương sản xuất loại phim này đưa vào Nam phục vụ đấu tranh chính trị; đã đầu tư kinh phí, giao Bộ Văn hóa, Cục Điện ảnh thực hiện. Vì không nhập được thiết bị, nên chưa thể thực hiện được.

Sau thành công của máy in phim chiến trường, Cục trưởng Cục Điện ảnh Phan Trọng Quang đã thông báo chủ trương sản xuất phim 8 mm với Tiến sĩ Ngọc. Tiến sĩ thấy có thể sản xuất loại phim này không cần chờ thiết bị ngoại.

Hai ngày sau, Cục trưởng mời Tiến sĩ Ngọc lên Cục, làm việc với Phó Thủ tướng Phan Trọng Tuệ về việc sản xuất phim 8 mm.

Phó Thủ tướng nói rõ ý nghĩa việc đưa phim vào Nam phục vụ đấu tranh chính trị, và khẳng định làm tốt việc này sẽ đóng góp to lớn vào cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở miền Nam. Phó Thủ tướng Phan Trọng Tuệ ưu tiên nhà khoa học: có yêu cầu gì, có thể gọi điện trực tiếp cho Phó Thủ tướng.

Sau một thời gian, TS Ngọc báo cáo Cục trưởng kết quả nghiên cứu, mời Phó Thủ tướng xuống xem phim: Chất lượng phim ta làm không kém phim ngoại, số lượng có khả năng đáp ứng yêu cầu đấu tranh.

Dây chuyền công nghệ của ta dựa trên trang thiết bị sẵn có và tự chế tạo, Nhà nước không phải đầu tư, không giống bất cứ của nước nào. Nếu chờ thiết bị ngoại sẽ tốn hàng triệu USD, không biết bao giờ mới có.

Ban đầu xưởng phim của Mặt trận Dân tộc Giải phóng mới làm được phim “câm”. Miền Bắc chủ trương chi viện cho Xưởng phim Giải phóng hệ thống thiết bị sản xuất phim có tiếng.

TS Ngọc được giao phụ trách công trình Chế tạo hệ thống thiết bị sản xuất phim có tiếng; trực tiếp thiết kế chế tạo máy in hình in tiếng phim hàng loạt.

Cục Điện ảnh nhận thư từ miền Nam gửi ra: Bộ phim có tiếng đầu tiên của Xưởng phim Giải phóng đã được sản xuất trên hệ thống máy này.

Và những sáng chế hữu ích phục vụ ngành điện ảnh

Ngành điện ảnh ra đời cuối thế kỷ 18, đầu thế kỷ 19. Các bộ phim truyện nhanh chóng dài ra gồm nhiều cuốn. Để xem liên tục cả bộ phim, phải dùng hai máy, chiếu luân phiên.

Một vấn đề được đặt ra trước kỹ thuật điện ảnh thế giới: Liệu có thể chiếu phim liên tục bằng một máy. Đến những năm 1970, cả thế giới vẫn chiếu phim liên tục bằng hai máy.

Miền Bắc nước ta khi đó có hàng nghìn đơn vị chiếu bóng lưu động chỉ có một máy chiếu. Buổi chiếu phải dừng lại thay phim nhiều lần.

Năm 1972, TS Trần Quang Ngọc chế tạo thành công cơ cấu tự động thay phim, dùng chiếu phim liên tục bằng một máy; cơ cấu đơn giản, hoạt động chính xác, được xã hội chấp nhận.

Năm 1982, Cục Sở hữu trí tuệ gửi công trình Sáng chế máy chiếu phim liên tục sang tổ chức Phát minh Sáng chế Quốc tế (OMPI) và Ủy ban Phát minh Sáng chế Liên Xô xét nghiệm, được công nhận là sáng chế Quốc tế.

Như vậy, vấn đề kỹ thuật được thế giới đề ra từ hơn nửa thế kỷ trước, lần đầu tiên thực hiện ở Việt Nam, được thế giới công nhận.

Thời chiến tranh, chiến trường yêu cầu cót máy quay 16 mm, nhưng miền Bắc chỉ có cót 35 mm. Vật tư kỹ thuật liên hệ nhiều nơi không đâu xử lý được. Khi đó, ta chưa có các máy hiện đại như ngày nay.

TS Ngọc dùng bột sắt kẹp chi tiết trên băng từ. Cót được xử lý đúng yêu cầu, kịp gửi vào Nam. Phương pháp kẹp chi tiết đặc biệt này khi đó chưa có trong tài liệu kỹ thuật. Sau này ở nước ngoài, có người đăng ký được cấp bằng Sáng chế Quốc tế.

TS Ngọc còn là người chế tạo bộ phát tiếng phim máy chiếu. Máy chiếu phim Việt Nam sản xuất theo mẫu Liên Xô; một số bộ phận phải nhập ngoại. Có năm không nhập được bộ phát tiếng phim, máy không xuất xưởng được.

Trên cơ sở lý thuyết, TS Ngọc đề xuất giải pháp thay thế không giống Liên Xô, Trung Quốc; chất lượng được hội đồng công nhận là không kém mà giá thành bằng 1/10.

Máy nổ-phát điện AB-1 của Việt Nam sản xuất theo mẫu Liên Xô hoạt động không tốt. Năm 1979 yêu cầu phục vụ chiến tranh biên giới và mạng lưới cấp thiết, máy bị hỏng hàng loạt.

Bộ Văn hóa - Thông tin yêu cầu Cục Điện ảnh, Xí nghiệp Thiết bị Văn hóa, Công ty vật tư phối hợp giải quyết gấp việc này. Chuyên gia nhiều lần sang làm việc với nhà máy Cơ khí Chính xác, Bộ Cơ khí và Luyện kim, nơi sản xuất máy, nhưng không có kết quả.

Tiến sĩ Trần Quang Ngọc được mời về giải quyết, đã thay thế phần máy nổ trong cụm máy AB-1 ta chế tạo hay hỏng, bằng máy nổ BS-3 Mỹ có nhiều ở nước ta khi đó. Thiết kế đơn giản, nhanh chóng đưa các đội chiếu bóng mặt trận và mạng lưới trở lại hoạt động.

Công trình Cải tạo máy nổ - phát điện được Ủy ban Khoa học và Kỹ thuật (KHKT) Nhà nước cấp chứng nhận quyền tác giả; Triển lãm thành tựu Kinh tế-Kỹ thuật Việt Nam tặng Huy chương Đồng.

Thời gian cấm vận không nhập được đèn hồ quang, nhiều rạp đã đóng cửa. Tiến sĩ Ngọc lập quy trình công nghệ sản xuất đèn từ trang thiết bị của các cơ sở khác nhau; cải tạo máy sẵn có (đa phần), chế tạo thêm máy mới (thật cần thiết).

Để có nguyên liệu sản xuất, TS Ngọc hợp đồng với Liên đoàn Địa chất khai thác quặng đất hiếm của ta; phối hợp Đại học Bách khoa, Tổng hợp điều chế các chất cần thiết; hợp đồng với Viện Luyện kim Màu và Nguyên tố hiếm sản xuất số lượng lớn các hợp chất này.

Bằng cách đặt hàng gia công các cơ sở, nhanh chóng đáp ứng yêu cầu đèn hồ quang của ngành Điện ảnh, ngành In và các ngành công nghiệp khác, không yêu cầu Nhà nước đầu tư thiết bị, nhà xưởng, tuyển công nhân.

Trưởng phòng kỹ thuật Công ty Chiếu bóng Hà Nội đánh giá: Công trình đèn hồ quang đã cứu sống mạng lưới chiếu bóng.

Công trình Sản xuất đèn hồ quang chiếu bóng được Ủy ban KHKT Nhà nước cấp chứng nhận quyền tác giả; Triển lãm thành tựu Kinh tế-Kỹ thuật Việt Nam tặng Huy chương Bạc.

Máy chiếu phim Việt Nam sản xuất theo mẫu máy KH-11 Liên Xô từ năm 1950. TS Trần Quang Ngọc phối hợp Viện Kỹ thuật Điện ảnh với Xí nghiệp Thiết bị, Công ty vật tư đổi mới sản phẩm này ngang với máy cùng loại ở thời điểm đó.

Công trình Chế tạo máy chiếu phim mẫu được Hội đồng KHKT đánh giá đạt yêu cầu đề ra, đề nghị Bộ ra quyết định công nhận.

Tác giả dự kiến đưa ba sáng chế Quốc tế của mình vào công trình, để máy chiếu phim Việt Nam có ưu điểm khác biệt so với các máy đương thời: Một máy chiếu liên tục cả bộ phim, chế tạo đơn giản, chất lượng tiếng phim và tuổi thọ của phim được nâng cao.

Thời kỳ hội nhập, cần làm phụ đề phim xuất khẩu. Nhà nước đã đầu tư kinh phí mua thiết bị, cử người đi học, mời chuyên gia. Do nhiều nguyên nhân, công việc không thực hiện đúng kế hoạch.

TS Ngọc đề xuất phương pháp làm phụ đề phim kiểu lộ sáng sử dụng trang thiết bị sẵn có; kịp làm phim dự liên hoan phim quốc tế, đáp ứng yêu cần sản xuất của ngành. Công trình Ghi phụ đề phim nhựa đã được Cục Sáng chế cấp bằng Độc quyền Giải pháp hữu ích.

Ngoài ra, TS Ngọc còn có nhiều sáng chế khác như: Sáng chế cơ cấu chuyển phim máy chiếu được Nhà nước cấp bằng sáng chế Quốc tế số 036; Sáng chế cơ cấu tách phim tự động được Ủy ban KHKT Nhà nước cấp bằng sáng chế Quốc tế số 062; Nghiên cứu làm kỹ xảo phim nhựa được hội đồng nghiệm thu đánh giá xuất sắc, được Bộ Văn hóa-Thông tin ra Quyết định khen thưởng...

Hoạt động khoa học trong bao cấp hiệu quả kém, TS Trần Quang Ngọc vận dụng chủ trương đổi mới đề xuất đề tài: “Thử nghiệm mô hình quản lý theo cơ chế mới tiến hành các hoạt động khoa học kỹ thuật không dựa vào ngân sách nhà nước”.

Đề tài tạo ra mô hình cơ sở khoa học không tiêu phí tiền Nhà nước; tiền làm đề tài nhận từ khách hàng qua cơ chế thị trường; tiền xây dựng cơ sở huy động vốn góp. Đề tài được sự đồng tình ủng hộ của các nhà khoa học, các cơ quan Đảng, Nhà nước, tới Thủ tướng Chính phủ …

"Quả ngọt“ dành cho vị tiến sĩ đầu tiên của ngành điện ảnh

Là TS duy nhất của ngành suốt thời gian chiến tranh và nhiều năm sau hòa bình, TS Trần Quang Ngọc luôn ý thức trách nhiệm của mình với Tổ quốc. Chưa bao giờ TS Ngọc bó tay trước khó khăn, kể cả trường hợp tưởng chừng như không thể, hoặc nhiều người cho rằng không làm được. Các công trình của TS Ngọc tạo ra những thiết bị, những vật liệu, những quy trình công nghệ, những giải pháp đặc biệt; bảo đảm sản xuất phim, bảo vệ phim, phổ biến phim đến quần chúng, cả vùng địch tạm chiếm, vùng đồng bào dân tộc và ra các nước trên thế giới.

Nhiều giải pháp của TS Ngọc thực hiện trong chiến tranh, sau hội nhập được cấp bằng sáng chế Quốc tế.

Trong bài báo đăng trên Báo Nhân dân Chủ nhật ngày 3-6-1990 có đăng thông tin Viện trưởng Viện Kỹ thuật điện ảnh và video Việt Nam, TS Ngọc được cấp nhiều bằng sáng chế (Quốc tế) nhất ở nước ta tính đến thời điểm đó.

TS Trần Quang Ngọc đã vinh dự được nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh với Cụm công trình có tên gọi “Nghiên cứu phát triển và đổi mới công nghệ ngành điện ảnh phục vụ kháng chiến bảo vệ Tổ quốc và phục hồi kinh tế sau chiến tranh”.

Nhà khoa học với những công trình dấu ấn cho ngành điện ảnh nước nhà ảnh 1

TS Trần Quang Ngọc (thứ ba từ trái sang) nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh về khoa học và công nghệ.

Đây là Giải thưởng cao quý của Đảng và Nhà nước dành cho cán bộ công tác khoa học kỹ thuật. TS Trần Quang Ngọc là một trong số 12 cá nhân nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh trong lĩnh vực khoa học tự nhiên và kỹ thuật, tính từ năm 1945 đến 2015 (70 năm), bao gồm: Trần Đại Nghĩa, Tạ Quang Bửu, Nguyễn Xiển, Nguyễn Văn Hiệu, Lê Văn Thiêm, Hoàng Tuỵ, Đào Văn Tiến, Nguyễn Văn Đạo, Nguyễn Đình Tứ, Trần Quang Ngọc, Nguyễn Tăng Cường, Lê Bá Thảo.