Tiến trình gia nhập WTO, cơ hội và thách thức đối với nước ta

Tiến trình gia nhập WTO, cơ hội và thách thức đối với nước ta

Sắp tới, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của WTO - tổ chức chi phối chính sách thương mại của các quốc gia và vùng lãnh thổ thành viên, chiếm 85% tổng thương mại hàng hóa và 90% thương mại dịch vụ toàn cầu. Ðây là dấu mốc mới của nước ta trong tiến trình chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế được cộng đồng quốc tế ghi nhận. Ðồng thời, việc gia nhập WTO cũng đặt ra nhiều vấn đề mới cho đất nước ta, trước hết là cho cộng đồng các doanh nghiệp trong quá trình chuẩn bị hành trang bước vào "sân chơi" chung. Nhân dịp này, báo Nhân Dân mở mục "Việt Nam gia nhập WTO", nhằm trao đổi kinh nghiệm, thông tin đa chiều về chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế. Chúng tôi mong nhận được nhiều bài viết của các nhà khoa học, nghiên cứu kinh tế, quản lý doanh nghiệp và bạn đọc trong cả nước.

 Năm nguyên tắc lớn của WTO

Hiện nay, WTO có 150 thành viên và 29 thành viên đang đàm phán (trong đó có Việt Nam). WTO là tổ chức thương mại lớn nhất toàn cầu. Liên hợp quốc có 192 thành viên. WTO là 179 thành viên. Số thành viên của WTO hầu như đã là thành viên của Liên hợp quốc. Ðây là sân chơi mà cả thế giới chơi. Nếu chúng ta đứng ngoài thì chúng ta sẽ không tham gia được vào sân chơi điều tiết toàn bộ ngành thương mại thế giới, chiếm 85% thương mại hàng hóa, 90% thương mại dịch vụ toàn cầu. WTO quyết định hoạt động kinh tế, thương mại, đầu tư của toàn cầu. WTO có một bộ nguyên tắc khổng lồ điều tiết toàn bộ hoạt động kinh tế, thương mại, trong đó có năm nguyên tắc lớn: minh bạch hóa chính sách (rõ ràng, minh bạch, cụ thể, dễ dự đoán để giúp các nhà doanh nghiệp nắm được, thực hiện kinh doanh. Nếu nói thông thoáng (không có luật) thì không phải, luật phải rõ ràng, minh bạch, trước khi ra luật mới phải thông báo cho các doanh nghiệp biết và dự đoán được, chuẩn bị làm ăn). Nguyên tắc đối xử tối huệ quốc (đối xử cho nước này không kém hơn đối xử của nước thứ ba). Không phân biệt đối xử. Ðối xử quốc gia (dành cho doanh nghiệp nước ngoài đối xử không kém hơn đối xử doanh nghiệp trong nước). Mở cửa thị trường hàng hóa, dịch vụ giúp cho thương mại toàn cầu phát triển, kinh tế phát triển. WTO có khoảng 18 hiệp định lớn và 1 bộ quy tắc. 18 hiệp định: hiệp định về thuế quan (GATT), dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ, trị giá hải quan, hiệp định về vấn đề hàng nông nghiệp, chống bán phá giá, chống trợ cấp, hiệp định về cấp phép nhập khẩu, kiểm tra hàng trước khi xếp, kiểm dịch động thực vật, quy tắc xuất xứ, một số hiệp định khác; rào cản thương mại (TBT). Toàn bộ quy tắc gói gọn trong 30 vạn trang. Ðây là bộ quy tắc khổng lồ, giúp điều tiết toàn bộ thương mại toàn cầu.

Quá trình đàm phán gia nhập WTO

Chúng ta đã đàm phán 11 năm với hơn 200 cuộc, trong đó đàm phán đa phương (14 phiên), song phương (28 đối tác); nước nhanh nhất (3 phiên), nước chậm nhất (13 phiên). Ðây là số lượng  nhiều nhất trong đàm phán Việt Nam với các tổ chức quốc tế (với ASEAN chúng ta mất hai năm, Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ chúng ta mất bốn năm). Sở dĩ chúng ta đàm phán dài như thế chỉ với mục đích sớm gia nhập WTO.

Gia nhập WTO chúng ta có một số cơ hội lớn:

+ Ðây là sân chơi lớn toàn cầu. Việt Nam gia nhập sẽ tăng vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.

+ Chúng ta cần thị trường toàn cầu để phát triển kinh tế, thương mại và thu hút đầu tư. Hiện nay, xuất khẩu của chúng ta tăng tương đối nhanh, có năm 23%, có năm 19%, năm 2005 kim ngạch của chúng ta đạt 32,5 tỷ USD. So với các nước trong khu vực thì như vậy là rất nhỏ: Thí dụ: so với Thái-lan, 63 triệu dân, kim ngạch đạt hơn 100 tỷ USD. Chúng ta chỉ bằng 1/3 trong khi dân số là 83 triệu người; nếu so với Philippines, chúng ta bằng 2/3.

Muốn thực hiện được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh thì kim ngạch xuất khẩu của chúng ta phải đạt 100 tỷ USD trở lên, nhập khẩu phải ở mức tương đương. Hàng hóa và dịch vụ Việt Nam còn bị phân biệt đối xử, khi gia nhập WTO những phân biệt đối xử đó mới được dỡ bỏ. Thí dụ, xuất khẩu các mặt hàng dệt may, giày dép sang châu Âu; vẫn không được hưởng ưu đãi thuế quan đối với nông sản, nên không bán gạo vào châu Âu được. Hàn Quốc bảo hộ gạo, có hạn ngạch, gia nhập WTO chúng ta mới được chia hạn ngạch. Với Hoa Kỳ, không gia nhập WTO chúng ta vẫn bị hạn ngạch dệt may. Nếu gia nhập WTO, chúng ta được dỡ bỏ hạn ngạch dệt may. Gia nhập WTO chúng ta mới dỡ bỏ được rào cản, phân biệt đối xử mà chỉ dành riêng cho các thành viên WTO.

+ Gia nhập WTO chúng ta có hệ thống luật pháp minh bạch, rõ ràng, dễ dự đoán thu hút các nhà đầu tư trong nước, nước ngoài. Vì trong đàm phán WTO chúng ta có hai loại: đa phương và song phương. Với đa phương yêu cầu đầu tiên là phải minh bạch hóa chính sách. Chúng ta đã trả lời hơn 3.000 câu hỏi liên quan chính sách kinh tế, đầu tư, tài chính, ngân hàng. Chính vì vậy mà trong đoàn đàm phán chính phủ của chúng ta đã phải bao gồm tất cả các bộ, ngành tham gia để đảm đương được khối lượng công việc lớn, trả lời nhiều vấn đề liên quan kinh tế, thương mại. Chúng ta phải có chương trình xây dựng pháp luật.

Gia nhập WTO chúng ta phải có các văn bản pháp luật liên quan các hiệp định, các quy định của WTO. Vì vậy, chúng ta có một kế hoạch sửa và xây mới 25 luật và pháp lệnh. Chúng ta sẽ quyết tâm làm bằng được. Quốc hội sẽ dành ưu tiên để trong các phiên họp dành thời gian xây dựng các luật, coi đây là việc trọng tâm của Quốc hội (năm 2005 sửa và xây mới 29 luật, năm 2006 sửa và xây mới 10 luật). Trong toàn bộ các luật và pháp lệnh mà chúng ta cam kết đa phương sẽ sửa và xây mới là 25 luật và pháp lệnh, thì chúng ta đã làm xong 24 luật và pháp lệnh. Còn một văn bản luật, chúng ta đang trong quá trình soạn thảo, dự kiến phiên tháng 10-2006 sẽ hoàn thành. Vậy, Việt Nam là nước đầu tiên có hệ thống pháp luật tương đối hoàn chỉnh để gia nhập WTO.

Ðể đổi mới kinh tế, cải cách hành chính Việt Nam phải xây mới và sửa đổi 100 luật. Như vậy, số văn bản phục vụ đàm phán, gia nhập WTO chỉ bằng 1/4 số văn bản luật pháp phục vụ cải cách hành chính, và đổi mới kinh tế. Ðiều đó thể hiện quyết tâm cao của Chính phủ, Quốc hội Việt Nam tích cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Ông Chủ tịch Ban công tác, các thành viên Ban công tác, kể cả đoàn Hoa Kỳ cũng đánh giá rất cao quyết tâm của Việt Nam trong việc sửa đổi hệ thống pháp luật trong thời gian vừa qua.

Chúng ta thấy các nhà đầu tư nước ngoài rất quan tâm đến tiến trình gia nhập WTO của Việt Nam. Vì họ cho rằng, nếu Việt Nam gia nhập WTO thì hệ thống pháp luật sẽ phù hợp sân chơi của thế giới và nó sẽ ổn định. Chính vì điều đó mà đầu tư nước ngoài năm 2005 tăng hơn rất nhiều so với 2004, sáu tháng đầu năm 2006 tiếp tục tăng. Các dự án đầu tư nước ngoài của Hoa Kỳ, Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapore... nhất là dự án lớn  bắt đầu vào Việt Nam, kể cả công ty đa quốc gia. Các công ty đa quốc gia có vai trò rất quan trọng đối với nền kinh tế và thương mại toàn cầu. Theo thống kê của WTO, trên thế giới có khoảng 70 nghìn công ty đa quốc gia, chiếm 1/3 thương mại toàn cầu. Các nước đều muốn các công ty đa quốc gia đầu tư vào nước mình, vì họ có công nghệ, vốn, thị trường toàn cầu. Không phải họ đầu tư vào một nước là họ vào thị trường nội địa của nước đó, mà họ còn tính cả thị trường khu vực, toàn cầu. Nơi nào có lợi thế hơn sẽ đầu tư vào và xuất khẩu đi các nước khác ở khu vực.

Gia nhập WTO, chúng ta sẽ có điều kiện chủ động tham gia chính sách thương mại toàn cầu. Xu hướng trong WTO, lần đầu trong hội nghị Hồng Công vừa qua đã đề cập công tác bình đẳng và cân bằng thương mại giữa các thành viên của WTO. Yêu cầu các nước phát triển mở cửa thị trường hàng nông sản, bỏ trợ cấp xuất khẩu để tạo cho thương mại toàn cầu phát triển bền vững và tạo điều kiện cho thương mại phát triển công bằng và không bị bóp méo.

Gia nhập WTO, những tranh chấp được giải quyết tốt hơn: Xu hướng các nước là dùng WTO để giải quyết tranh chấp. Giải quyết tranh chấp trong WTO là dễ thực thi hơn. Thí dụ, một nước A áp thuế chống bán phá giá với một nước thành viên WTO mà tổng thuế đó tương đương với 100 triệu USD, khi WTO giải quyết tranh chấp, đi đến quyết định là kiện chống bán phá giá không đúng, yêu cầu nước kiện kia bỏ đi. Nếu không bỏ, thì nước bị kiện có quyền nâng thuế nhập khẩu các mặt hàng của nước kia lên tương đương mức 100 triệu USD. Do vậy, cơ chế đó thực thi trong cuộc sống nhiều hơn, dễ thực hiện hơn là cơ chế giải quyết tranh chấp qua trọng tài quốc tế và tòa án. Gia nhập WTO không có nghĩa các vụ kiện chống bán phá giá sẽ giảm đi. Chúng ta càng tăng xuất khẩu, thì tranh chấp thương mại sẽ càng tăng. Chỉ có điều mức độ chúng ta sẽ được giải quyết công bằng hơn. Nếu trước đây, năm 1990 chúng ta đạt kim ngạch xuất khẩu 2,4 tỷ USD, nay chỉ trong một tháng, chúng ta đã đạt kim ngạch xuất khẩu hơn 3 tỷ USD. Khi vào WTO, để đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế, tăng xuất khẩu, lúc đó chúng ta sẽ đạt đến mức xuất khẩu 100 tỷ USD. Mỗi tháng chúng ta đạt kim ngạch xuất khẩu gần 10 tỷ USD. Như thế, mức độ chúng ta tham gia thị trường thế giới càng tăng, thì các tranh chấp quốc tế về thương mại cũng tăng. Gia nhập WTO không có nghĩa là hết tranh chấp quốc tế về thương mại. Chỉ có điều chúng ta không bị phân biệt đối xử nữa.

Ðàm phán song phương

Gia nhập WTO chúng ta phải tiến hành đàm phán đa phương và song phương. Ða phương là để chúng ta minh bạch hóa các chính sách và đi đến cam kết các chính sách kinh tế vĩ mô. Ði đến cam kết các chính sách kinh tế vĩ mô về đa phương, cho đến nay, cơ bản chúng ta chấp nhận các hiệp định của WTO khi chúng ta gia nhập. Chúng ta bỏ các biện pháp trợ cấp không đúng với quy định của WTO: trợ cấp liên quan tỷ lệ xuất khẩu; tỷ lệ nội địa hóa... Các trợ cấp mà WTO cho phép chúng ta vẫn thực hiện: trợ cấp liên quan xúc tiến thương mại; đầu tư, du lịch, nâng cao chất lượng hàng hóa, cước phí vận tải... Một vấn đề quan trọng của vòng đàm phán Doha đó là vấn đề trợ cấp hàng nông sản. Việt Nam là nước rất đặc biệt, đất chật, người đông. Khi đàm phán với Australia thì thấy một hộ của họ có đến 200 ha. Còn bình quân đất canh tác Việt Nam chỉ có 0,3 ha/hộ. Nhưng, Việt Nam lại có nhiều mặt hàng nông sản xuất khẩu được xếp hạng trên thế giới. Ðây là một sự thật: gạo (có lúc xếp thứ 2, có lúc thứ 3 thế giới); cà-phê (đứng thứ 2 thế giới), tiêu (số 1 thế giới), điều (số 2 thế giới), chè chúng ta có sản lượng đứng thứ 8 thế giới, hải sản, thủy sản cũng được xếp thứ 8, 9 thế giới. Ðây là trường hợp  rất đặc biệt của thế giới. Cho nên, trong đàm phán song phương, nhiều nước Mỹ la-tinh yêu cầu đàm phán là vì thế. Họ cho rằng, Việt Nam có mặt hàng nông sản tràn ngập thị trường thế giới, làm cho các nước Mỹ la-tinh gặp khó khăn, nhất là cà-phê. Trước đây, giá cà-phê rất cao, bây giờ chỉ còn hơn 1.000 USD/tấn, trong đó có sự tham gia của Việt Nam và nhiều nước khác. Giá trị của một cốc cà-phê không đổi. Chỉ có lợi nhuận chuyển từ người trồng cà-phê sang người chế biến và tiêu thụ cà-phê. Chính vì thế, ông David nói, Việt Nam phải làm thế nào tăng giá trị vào hàng xuất khẩu của mình. Muốn vậy, chế biến chiếm vai trò rất quan trọng. Nếu chúng ta bán 1kg cà-phê, tại hội nghị Hồng Công, báo chí viết giá 1kg cà-phê là 1USD. Nhưng khi chế biến 1 kg cà-phê để bán cho người tiêu dùng cho vào cốc cà-phê, thì giá sẽ lên tới 600 USD. Tất nhiên còn nhân công, vốn... Chúng ta thấy tại sao cà-phê Trung Nguyên phát triển, vì họ tham gia vào chế biến, phân phối tiêu thụ, cho nên lợi nhuận siêu ngạch nằm trong đó. Ðó là phần quan trọng.

Việt Nam khi đàm phán đa phương, chúng tôi lại phải đàm phán cả vấn đề nông nghiệp. Nông nghiệp Việt Nam canh tác lạc hậu, nhưng lại xuất khẩu được nhiều. Ðây là một xu hướng mà tất cả các nước vừa qua đều phải bỏ trợ cấp xuất khẩu khi gia nhập đối với hàng nông sản. Chúng ta cũng phải chấp nhận xu hướng này. Nhưng, 10% đối với hộp xanh (trợ cấp trong nước) thì Việt Nam vẫn được hưởng đầy đủ. Nhưng, đối với Trung Quốc (vì Trung Quốc phát triển hơn Việt Nam) nên mức cam kết của Trung Quốc là 8%. Mức 10%, lâu nay chúng ta sử dụng rất ít. Chúng ta bỏ trợ cấp xuất khẩu, nhưng chúng ta chuyển tiếp vào cho người nông dân, người sản xuất và chế biến nông sản, không trợ cấp vào xuất khẩu nữa. 10% đối với ngành nông nghiệp Việt Nam vào khoảng 11 tỷ USD. Nên nếu 10% chúng ta có 1,1 tỷ USD/năm, để phục vụ hỗ trợ cho nông dân trong nước, mức đó bảo đảm nền nông nghiệp ổn định phát triển trong tương lai.

Những trợ cấp khác mà WTO không cấm thì chúng ta vẫn được sử dụng. Một số thông tin gần đây có đăng gia nhập WTO chúng ta sẽ bỏ hết trợ cấp, điều đó không phải. Chúng ta chỉ bỏ những trợ cấp bị cấm, còn những trợ cấp không cấm thì vẫn được duy trì và thực hiện. Còn đối với trợ cấp trong các lĩnh vực khác liên quan dệt may, chúng ta có Quyết định 55 của Thủ tướng Chính phủ. Khi những người dịch lại cho các cơ quan nước ngoài, phiên dịch không chuẩn. Trong Quyết định số 55, chúng ta nói hỗ trợ các doanh nghiệp để sản xuất hàng dệt và may để xuất khẩu. Nhưng, từ hỗ trợ không có nghĩa là cho không (nhiều người dịch là subsidize - cho không) dẫn đến có sự hiểu lầm. Chúng ta chỉ hỗ trợ vay vốn, Nhà nước chỉ hỗ trợ chênh lệch giữa lãi suất thông thường và lãi suất ưu đãi, tổng cái đó chỉ có năm triệu USD. Khi đàm phán với Hoa Kỳ, phía họ nói Việt Nam trợ cấp bốn tỷ USD cho ngành dệt may. Ðiều đó không phải. Khi chúng ta chứng minh đầy đủ số liệu, đoàn Hoa Kỳ mới cho là đúng. Thứ nhất, vấn đề cấp phép, Việt Nam cấp phép cho tất cả các doanh nghiệp thuộc tất cả các thành phần kinh tế, kể cả các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tham gia lĩnh vực dệt may. Thứ hai, chênh lệch, Việt Nam chỉ ưu đãi về lãi suất, trong thời gian qua chỉ có năm triệu USD, như vậy không phải lớn. Nhưng, để thực hiện đàm phán với Hoa Kỳ, Việt Nam đã bỏ Quyết định 55. Hoa Kỳ sẽ bỏ hạn ngạch dệt may đối với Việt Nam. Khi bỏ hạn ngạch dệt may của Hoa Kỳ, thì EU và Canada đã bỏ hạn ngạch cho chúng ta từ năm 2005. Khi gia nhập WTO, toàn bộ dệt may không bị hạn ngạch nữa. Ðây là cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam. Chúng ta cũng phải bỏ một số quy định cấm: nhập khẩu thuốc lá điếu, ô-tô đã qua sử dụng, linh kiện liên quan máy tính. Trên thực tế, cấm nhập ô-tô đã qua sử dụng đã bỏ rồi, vấn đề hiện nay là thuế, làm thế nào bảo đảm quyền lợi người tiêu dùng. Bộ Tài chính đang tiếp tục làm để xử lý vấn đề thuế, vì đây cũng là một trong những vấn đề đáng quan tâm. Chúng ta một mặt cần bảo vệ lợi ích của người sản xuất, đồng thời cũng cần bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng. Phải cân đối hai lợi ích này, chứ không thể chỉ chú ý đến lợi ích của người sản xuất, mà không chú ý đến lợi ích của người tiêu dùng.

Ðàm phán song phương chúng ta đã cơ bản kết thúc với 28 đối tác. Trong đàm phán song phương, Việt Nam đưa ra bản chào số 4, chào đến 99% số biểu thuế. Thí dụ, đàm phán với Hoa Kỳ, tổng số dòng thuế là 9.400 dòng thuế. Còn với các nước, tùy thuộc, có nước 3.000, có nước 5.000, có nước chỉ là 200 dòng thuế. Tùy theo yêu cầu của các nước, biểu 4 chúng ta đã chào mức thuế tương đương với 18% số hàng công nghiệp, nông nghiệp. Từ đó, chúng ta đi đến đàm phán. Trên cơ sở đó chúng ta cơ bản đã kết thúc. Mức thuế trung bình hàng nhập khẩu, hàng nông sản và hàng công nghiệp khoảng xấp xỉ 14%. So với Trung Quốc, khi gia nhập, cam kết mức trung bình 10,4%. Kinh tế Việt Nam mức phát triển thấp hơn Trung Quốc. Cho nên, mức chúng ta cam kết chênh với Trung Quốc là hợp lý.

Trong đàm phán, Oxfarm (một tổ chức phi chính phủ) hỏi, như vậy thì ngành nông nghiệp của Việt Nam liệu có tồn tại và phát triển được không? Hàng hóa sẽ tràn ngập vào thị trường Việt Nam có phải không? Xem chi tiết từng hàng, báo cáo Chính phủ thông báo lại cho các doanh nghiệp. Nhìn tổng thể thấy hàng hóa không tràn ngập, sẽ có nhập khẩu tăng. Chúng ta đã trải qua thử thách trong thị trường mậu dịch tự do ASEAN, mức thuế có lộ trình xuống 0-5%, chúng ta thực hiện lộ trình sát AFTA rồi, nhưng tới bây giờ thị trường có tràn ngập hàng hóa của ASEAN đâu. Gia nhập WTO, thuế chúng ta đang từ mức 18%, giảm xuống 4% nữa, còn khoảng 14%. Như vậy, không có chuyện đó, và xuống đến mức đó thì chúng ta thôi. Trong đàm phán gia nhập WTO, một trong những nguyên tắc khó khăn nhất chúng ta phải vượt qua là để các nước hiểu thực tế Việt Nam và công nhận Việt Nam là nước đang phát triển ở trình độ thấp và nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi. Ở Việt Nam có một nghịch lý, thu nhập bình quân đầu người chưa đầy 1.000 USD/năm, trong lúc WTO quy định những nước kém phát triển là nước có thu nhập dưới 1.000 USD. Nhưng, Việt Nam không được xếp vào nước kém phát triển, vì khi Liên hợp quốc công nhận Việt Nam là nước đang phát triển có cộng thêm các tiêu chí về y tế, văn hóa, giáo dục, nên mới xếp Việt Nam là nước đang phát triển. Về kinh tế thu nhập chúng ta thấp. Cho nên, chúng ta phải thương lượng để được công nhận ở trình độ thấp.

Hai là, nền kinh tế của chúng ta có thời kỳ chuyển đổi, nên có lộ trình giảm thuế, lộ trình chuyển đổi thị trường. Lộ trình giảm thuế lấy mức thuế hiện hành bắt đầu giảm trong vòng 3-5 năm sẽ xuống mức 14%. Tất nhiên, từng mặt hàng có mức cắt giảm khác nhau: xe máy phân khối lớn theo lộ trình chúng ta cắt xuống còn 45% (hiện nay 60%); ô-tô tùy loại mức cắt giảm xuống còn 52% hoặc 47% hoặc 50%. Chúng ta áp mức thuế bảo hộ cho ngành ô-tô, xe máy khá cao. Cho nên trên thực tế mức đó không phù hợp lắm, nếu chỉ bảo vệ cho người sản xuất, thì người tiêu dùng Việt Nam hiện nay chịu mức giá ô-tô cao nhất thế giới. Vì vậy, chúng ta phải giảm thuế, một mặt phải bảo vệ người sản xuất, mặt khác phải cân đối lại lợi ích của người tiêu dùng. Hơn nữa, thực tế các tập đoàn đa quốc gia phân vùng, phân khu vực thành thị trường, cho nên đó cũng là điều kiện. Một số ngành sản xuất trong nước của Việt Nam hiện nay cũng đã phát triển. Cho nên, những ngành đó trong thời gian qua đã thay thế được phần lớn các mặt hàng lâu nay vẫn nhập khẩu. Khi chúng ta mở cửa thị trường, các nhà sản xuất trong nước có sản phẩm rồi. Muốn hay không họ phải giảm chi phí, nâng cao khả năng cạnh tranh để tồn tại và phát triển. Như thế, chúng ta sẽ có điều kiện đó. Thí dụ, phân đạm chúng ta đã có nhà máy phân đạm, nếu thuế có cao thì nhà máy phân đạm trong nước đã có khả năng cung cấp cho thị trường. Toàn bộ ngành bia, có mở nữa cũng coi như toàn bộ các công ty bia của Việt Nam vẫn cạnh tranh được; hoặc vật liệu xây dựng, xi-măng, thép (chủ yếu thép xây dựng, bắt đầu có đầu tư thép cao cấp), điều kiện kinh tế của Việt Nam bây giờ đã khác xa so với cách đây 15 năm.

Ðối với nông nghiệp, các nước thành viên cũ, mức thuế nông nghiệp khoảng 22%. Nhưng xu hướng các nước mới gia nhập phải giảm thuế nhiều hơn để gia nhập. Vì các nước cho rằng, các nước đã gia nhập phải mất vài chục năm đấu tranh từ GATT để có thành quả như bây giờ. Các nước mới gia nhập nhiều hay ít đều phải đóng góp qua việc cắt giảm thị trường, cắt giảm thuế.

Nhưng, tổng thuế với nông nghiệp, Việt Nam có lợi thế là có nhiều mặt hàng nông nghiệp xuất khẩu. Ðã xuất khẩu được thì cạnh tranh được với thế giới. Chúng ta lo mặt hàng thịt bò, thịt lợn. Chúng ta thấy, thịt bò, thịt lợn là các mặt hàng từ chăn nuôi đơn lẻ, chưa có theo hình thức trang trại. Cho nên, trong đàm phán rất khó khăn. Các nước xuất khẩu thịt bò lớn: Hoa Kỳ, Canada, Australia, New Zealand đều yêu cầu giảm thuế tới 0-5%. Chúng ta trả lời: Bò Việt Nam phần lớn là bò cóc, mỗi hộ nuôi 5-10 con, năng suất thấp, sức cạnh tranh không cao. Giống bò của Việt Nam phần lớn phải nhập khẩu, phần trợ cấp của Nhà nước trong lĩnh vực này hầu như không có. Các nước cũng thấy được khó khăn của Việt Nam và cũng đi đến mức giảm đến 4-5% so với mức thuế hiện hành. Mức 0-5% thì chúng tôi cũng nói thẳng đàn bò cóc Việt Nam chết, không tồn tại. Và chúng tôi gia nhập WTO muốn để ổn định, phát triển, mở cửa, nhưng mức độ phải phù hợp với Việt Nam chứ không phải mở theo bất cứ điều kiện nào. Cuối cùng, các nước cũng phải chấp nhận, ngay cả đàm phán với Hoa Kỳ vấn đề cuối cùng là đàm phán về thịt bò và thịt lợn, thuế nông nghiệp. Chúng tôi phải chấp nhận điều kiện với Hoa Kỳ là cao hơn so với Australia và New Zealand. Sau này cân đối lại biểu thuế sẽ có sự điều chỉnh. Các mức thuế sẽ áp dụng MFN cho nên các nước đều hưởng mức thuế như nhau. Cuối cùng Ban Thư ký sẽ tổng hợp lại.

Ðàm phán song phương là những cuộc đàm phán căng thẳng. Tất cả các đối tác yêu cầu đàm phán đông vì các lý do: họ cho rằng Việt Nam là một thị trường tương lai hứa hẹn, vì Việt Nam có số dân đông thứ 13 thế giới, lao động hơn 40 triệu người, lao động trẻ hơn 30 triệu người. Việt Nam có vị trí thuận lợi cả trên bộ, trên biển, hàng không, là điều kiện cho phát triển thương mại sau này. Việt Nam có điều kiện thuận lợi nữa là chúng ta ổn định về chính trị nhất trong khu vực. Ðây là điều các nhà đầu tư nước ngoài rất quan tâm. Có thể nói, thương mại Việt Nam những năm qua tăng liên tục nhưng tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu chưa phải là lớn lắm. Thí dụ, năm 2005 kim ngạch cả xuất, nhập khẩu mới đạt hơn 60 tỷ USD. Nếu riêng xuất khẩu mới khoảng hơn 30 tỷ USD, chúng ta phải phấn đấu nhiều hơn nữa. Ðàm phán các nước thống nhất như vậy, nhưng nhìn vào tương lai, nhiều nước đòi hỏi được đàm phán. Khi chúng ta đàm phán với Trung Quốc, chúng ta tưởng giữa Việt Nam - Trung Quốc đã có Hiệp định tự do thương mại trong ASEAN, nên không cần đàm phán nữa, nhưng với Trung Quốc vẫn phải đàm phán 10 phiên, rất nhiều phiên căng thẳng, đàm phán suốt đêm, nhiều vấn đề căng: mở du lịch, ngân hàng phụ, mở vận tải đường bộ, nhưng sau đó, chúng ta thấy khi đàm phán phải dựa vào quy định của WTO. Chúng ta thấy về vấn đề đường bộ, trong WTO chưa phát triển, hầu như chưa nước nào cam kết, nên bỏ, ngân hàng phụ thì chúng ta có ngân hàng 100% vốn nước ngoài, chúng ta không thể mở theo kiểu đó được. Cuối cùng, Trung Quốc cũng chấp nhận.

Ðặc biệt, đàm phán sau này với Hoa Kỳ. Hoa Kỳ và EU là các đối tác lớn nhất trong WTO cả về hàng hóa và dịch vụ. Hoa Kỳ và EU đàm phán không phải vì lợi ích của Hoa Kỳ và EU mà vì lợi ích của cả Tổ chức Thương mại thế giới, nên yêu cầu đàm phán rộng hơn, sâu và đa dạng hơn. Ðàm phán như vậy rất phức tạp. Chúng ta cho rằng xong đàm phán song phương (BTA) thì sẽ gần xong việc gia nhập WTO, trên thực chất, có một số vấn đề rất lớn chưa giải quyết được, như hàng dệt may Việt Nam còn hạn ngạch. Mặt khác chúng ta vẫn còn bị luật Jackson vanik hằng năm Quốc hội Hoa Kỳ gia hạn một lần về cơ chế thương mại và chúng ta chưa được hưởng quy chế thương mại bình thường vĩnh viễn (PNTR). Vì vậy, để có được PNTR, Hoa Kỳ yêu cầu chúng ta phải có đủ BTA, gia nhập WTO. Hiện nay, chúng ta làm xong cả hai nhiệm vụ đó. Hoa Kỳ đánh giá Việt Nam thực hiện đầy đủ BTA, đồng thời kết thúc đàm phán về gia nhập WTO. Ðó là điều kiện để trình PNTR, chúng ta đang tích cực vận động để Quốc hội Hoa Kỳ thông qua PNTR. Việt Nam mới được hưởng thuế phổ thông, chưa được hưởng thuế ưu đãi GST. Hoa Kỳ dành cho 72-74 nước được hưởng GST không có Việt Nam, cho nên, gia nhập WTO là cơ hội cho chúng ta trong một số vấn đề mà chúng tôi nêu.

Kết thúc đàm phán với Hoa Kỳ có người nói chưa hài lòng, có người nói được nhiều, có người nói được ít. Chúng tôi thống nhất đây là đàm phán mà hai bên đều giành thắng lợi. Trên thực chất, các nhà đàm phán luôn như thể no bụng đói con mắt, thường đòi những điều kiện cam kết rất cao, nhưng nhà doanh nghiệp không cần cái đó. Nhà doanh nghiệp miễn có lợi là làm. Cam kết có cao mấy mà không có lợi thì vẫn không vào. Ðó là sự khác nhau giữa nhà đàm phán và doanh nghiệp. Thí dụ đòi mở ngân hàng như thế chúng ta đã cho chi nhánh 100% vốn, nhưng ngân hàng Mỹ vì chiến lược phát triển của họ nên rút, không ở Việt Nam. Giữa cam kết của nhà đàm phán với doanh nghiệp có khoảng cách. Nếu chúng ta kết thúc đàm phán với Hoa Kỳ mà giành được PNTR, quỹ OPEC, quỹ hỗ trợ ngân hàng EXIMBANK mới hoạt động mạnh. Khi đó quan hệ đầu tư của các nhà đầu tư lớn, xuất khẩu của Hoa Kỳ mạnh hơn. Kim ngạch buôn bán Việt Nam - Hoa Kỳ sẽ tăng trưởng đáng kể trong thời gian tới.

Những thách thức khi gia nhập WTO

Chúng ta kết thúc đàm phán song phương về gia nhập WTO, chúng ta cũng gặp rất nhiều thách thức. Thứ nhất, chúng ta muốn có thị trường toàn cầu thì chúng ta phải mở cửa thị trường cho các nước. Ðây là thách thức lớn nhất. Thứ hai, doanh nghiệp Việt Nam tuy bây giờ có số lượng rất đông 230 nghìn doanh nghiệp nhưng phần lớn là nhỏ và vừa, cho nên năng lực cạnh tranh kém. Ðó cũng là thách thức. Nhưng cũng có điều các doanh nghiệp Việt Nam năng động và cũng chuyển động rất nhanh khi môi trường kinh doanh thay đổi, nhưng lại bị hạn chế bởi vốn, công nghệ và năng lực. Từ đó dẫn tới năng lực cạnh tranh thị trường các mặt hàng của Việt Nam bị hạn chế. Tất nhiên, từng ngành có khác, năng lực cạnh tranh chỉ là tương đối, nay khác, mai khác. Thí dụ, đóng tàu chẳng hạn, trước đây có bao giờ Việt Nam nghĩ là sẽ đóng nhiều tàu biển đâu, nhưng sau khi lợi thế về đóng tàu thay đổi, chuyển từ châu Âu sang Nhật, Hàn Quốc, Trung Quốc, lương công nhân rất cao, thì Việt Nam lại trở thành nơi hấp dẫn đối với ngành đóng tàu trên thế giới. Chúng ta có ưu điểm: công nhân nhiều, nhiều vũng, vịnh kín có thể đóng tàu quanh năm. Ngành may mặc thì lương công nhân ở các nước ASEAN cao, họ sẽ chuyển sang Việt Nam; Thái-lan, Malaysia đang rất thiếu lao động. Malaysia mỗi năm phải nhập khẩu đến ba triệu lao động, Singapore nhập khẩu 0,5 triệu lao động. Các nước khác phải chuyển sang Việt Nam. Ở nước ta, Singapore có hai khu công nghiệp. Họ chuyển các lĩnh vực ít khả năng cạnh tranh sang ta. Ðây là một lợi thế. Chúng ta thấy rằng các doanh nghiệp Việt Nam lại phải chấp nhận sự cạnh tranh như thế. Thứ ba là, rất nhiều chính sách liên quan kinh tế thương mại sẽ thay đổi. Thí dụ phần liên quan trợ cấp cũ mà không phù hợp, WTO sẽ bỏ hạn ngạch, cấp phép, rồi cũng sẽ bỏ hết. Như thế tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp của chúng ta. Nhưng đồng thời làm cho các doanh nghiệp lâu nay dựa vào đó sống và phát triển phải chuyển sang hình thức kinh doanh không được bảo hộ hoặc mức bảo hộ thấp.

Thuế cũng như vậy, Nhà nước giảm thuế cũng tác động một phần đến ngân sách. Phần đóng góp ngân sách từ thuế nhập khẩu mỗi ngày một giảm. Trước kia, thuế nhập khẩu có lúc đến 30% GDP, bây giờ chỉ còn 15%, nhưng kim ngạch buôn bán tăng thì nó tăng. Chúng ta tăng kim ngạch buôn bán để tăng thuế. Hoặc có những cam kết chúng ta đã thực hiện rồi, như trị giá hải quan, chúng ta bỏ thuế mà áp dụng mức thuế tuyệt đối... Các doanh nghiệp nhập khẩu, giá theo giá hợp đồng. Có một số doanh nghiệp ảnh hưởng, nhưng kiểm tra, kiểm soát thì nó đi vào trật tự. Thế giới cũng phải trải qua giai đoạn đó không riêng quốc gia nào. Qua hậu kiểm để bảo đảm thu thuế. Vấn đề an sinh xã hội, sẽ phải giải quyết tình trạng một số doanh nghiệp nhỏ và vừa hoặc không có năng lực cạnh tranh sẽ gặp khó khăn, phá sản. Vậy giải quyết vấn đề trợ cấp, việc làm như thế nào cho lao động các doanh nghiệp này, đào tạo lại để họ tìm việc làm mới. Ðấy là những việc chúng ta phải làm.

Vấn đề nguồn lực, cái quyết định nhất là con người, khi chúng ta mở cửa vấn đề cạnh tranh giành nguồn lực này rất khốc liệt. Chúng tôi hỏi Singapore khi mở cửa sợ nhất cái gì, phía bạn trả lời quan trọng là làm sao giữ được người tài để phục vụ đất nước. Khi các doanh nghiệp nước ngoài vào, các cuộc cạnh tranh sẽ diễn ra, các doanh nghiệp sẽ dùng lương để thu hút người lao động giỏi, cho nên chúng ta, một mặt, cũng phải có chiến lược đào tạo, giữ những người có năng lực làm cho mình, giữ như thế nào tùy vào từng doanh nghiệp, không có bài toán chung cho tất cả. Có nhiều cách khác nhau để giữ người, cổ phần nhất định, lương cao, đối xử, tình cảm... Muốn hay không Nhà nước phải có chính sách để đào tạo, đào tạo lại người lao động. Hiện nay, tuy Việt Nam có lao động đông, nhưng lao động của chúng ta cũng có một số hạn chế: yếu ngoại ngữ, tác phong công nghiệp. Không chỉ trong lĩnh vực các doanh nghiệp mà cả ở các cơ quan quản lý nhà nước. Thí dụ, Trung Quốc, có hẳn một chỉ thị, đối với cán bộ lãnh đạo quận, huyện, các tỉnh biên giới gần Việt Nam phải biết tiếng Việt. Cho nên, khi chúng ta sang đó họ nói tiếng Việt rất thạo. Vấn đề là cán bộ quản lý Việt Nam phải biết ngoại ngữ. Mặt khác, phải chuyển cách quản lý theo phong cách mới. Ngày xưa quản bằng các lệnh, chỉ thị, can thiệp trực tiếp vào các doanh nghiệp, thì nay không còn, còn rất ít, chỉ còn những doanh nghiệp có vốn lớn của Nhà nước, quản lý thông qua biện pháp gián tiếp như xây dựng pháp luật, chính sách và kiểm tra đôn đốc việc thực hiện đó. Việc nắm từng ngành, hàng, không giống như trước, nhưng vẫn phải nắm. Khi chúng ta bỏ quản lý xuất khẩu gạo, lúc đầu mọi người rất ngại, sợ có thể xuất vượt, đến khi quyết định làm thì làm rất tốt. Mọi thành phần có thể xuất khẩu gạo được, nhưng chúng ta vẫn quản lý được vì mọi công việc giao cho hiệp hội. Hiệp hội đóng vai trò chính. Hiện nay, Nhà nước chuyển những vai trò mà Nhà nước không làm sang hiệp hội ngành hàng để bảo vệ ngành hàng, hợp tác liên kết để phát triển. Các cách làm cũ giành khách hàng bằng hạ giá không còn giá trị, làm ta yếu đi. Vai trò của hiệp hội, ngành hàng rất quan trọng. Liên kết để phát triển để xây dựng hệ thống phân phối trong nước. Các doanh nghiệp liên kết để ra thị trường thế giới, liên kết doanh nghiệp Việt Nam với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Chúng ta cần liên kết với nhau để tạo sức mạnh cho nhau và phát triển. Hiện nay, thị trường trong nước còn rất nhiều điều kiện phát triển. Có nhiều sinh viên Việt Nam sang học thạc sĩ ở Hoa Kỳ rất giỏi, có những trường Hoa Kỳ giữ lại, số đó vẫn về Việt Nam vì họ thấy cơ hội làm ăn ở Việt Nam nhiều hơn ở Hoa Kỳ. Hoa Kỳ đã phát triển tới mức độ  rất cao. Muốn làm ăn ở Hoa Kỳ phải có vốn, mạng lưới mới sống được, nhưng về Việt Nam có rất nhiều cơ hội.

Ðấy cũng là những thách thức, nhưng nếu chúng ta biết vượt lên chúng ta sẽ phát triển. Khi làm việc với hãng Nokia, thấy chiến lược nhờ đó mà họ trở thành công ty điện thoại di động số 1 thế giới, họ coi tất cả những thách thức là cơ hội mới, cuộc sống không có thử thách thì không có cuộc sống. Họ coi thách thức là một cơ hội, khi họ vượt qua được thì họ trở thành số 1. Chúng tôi cho rằng gia nhập WTO chúng ta có rất nhiều thời cơ, cũng có rất nhiều thách thức. Cơ hội đó có hay không phải do chính sách, do các doanh nghiệp. Nói mở thị trường hay không thì toàn bộ doanh nghiệp không sản xuất hàng xuất khẩu thì cũng vô nghĩa. Bây giờ nói mở ra để thu hút đầu tư nhưng toàn bộ doanh nghiệp, các địa phương, không thu hút đầu tư thì chúng ta cũng không đạt. Gia nhập WTO để chúng ta phát triển, nhưng không có nghĩa bản thân việc gia nhập WTO là chúng ta giàu có lên, hay chúng ta nghèo đi, mà đó là một cơ hội. Chúng ta tranh thủ được cơ hội đó, thì chúng ta giàu có. Chúng ta vượt qua được thách thức thì chúng ta tạo được cơ hội mới. Ðó là một thực tế. Nếu tranh thủ được thời cơ này, và chấp nhận để vượt qua thách thức này, chúng ta sẽ đưa nền kinh tế phát triển lên trình độ cao hơn, nhưng cũng đòi hỏi sự cố gắng của tất cả các bộ, ngành, nhất là sự lao động sáng tạo, liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp Việt Nam để chúng ta mạnh lên và phát triển nhanh hơn.

LƯƠNG VĂN TỰ
Thứ trưởng Thương mại,
Trưởng đoàn đàm phán Chính phủ về
kinh tế và thương mại quốc tế, Tổng Thư ký
Ủy ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế