Việt Nam gia nhập WTO, thời cơ và thách thức

Thời cơ

Trong số 148 thành viên của WTO có khoảng ba phần tư là các nước đang phát triển, kém phát triển và đang trong thời kỳ quá độ chuyển từ kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường. Những quốc gia này ngày càng có vai trò quan trọng trong nền kinh tế toàn cầu, và việc xúc tiến thương mại quốc tế như một giải pháp sống còn trong nỗ lực phát triển đất nước. Ðối với các nước đang phát triển, cần có cách nhìn nhận và áp dụng những quy chế hoàn toàn khác biệt so với các nước phát triển. Do đó, trong quy chế của WTO, tại Chương 6 có những quy định dành riêng cho các nước đang phát triển, với cơ chế "thời gian thoáng hơn, điều kiện tốt hơn". Việt Nam là một trong những nước đang phát triển, với thu nhập bình quân tổng sản phẩm quốc nội (GDP) thấp. Mặc dù đã có những bước tăng trưởng vượt bậc trong những năm qua, nhưng đến nay nước ta vẫn là một nước có nền kinh tế chưa phát triển, cơ cấu các ngành nghề chưa cân đối, tỷ trọng nhập khẩu quá lớn so với xuất khẩu... Việc gia nhập WTO là một trong những nỗ lực nhằm tiếp cận thị trường thương mại toàn cầu, nâng cao vị thế của Việt Nam trên thị trường thương mại quốc tế, tạo tiền đề hội nhập và phát triển nền kinh tế. Gia nhập WTO nghĩa là gia nhập thị trường thương mại toàn cầu, với hành lang pháp lý là Quy chế WTO và những hiệp định thương mại song phương và đa phương được ký kết với các nước thành viên WTO sẽ mang lại nhiều lợi ích cho các nước đang phát triển. Những lợi ích này được nhìn nhận trên nhiều góc độ khác nhau, như về phía Nhà nước, về phía các doanh nghiệp, về phía người tiêu dùng, nhưng có thể tổng hợp lại ở những lợi ích chủ yếu như sau:

Thứ nhất, gia nhập WTO sẽ có cơ hội mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm. Khi chưa gia nhập WTO, với nền kinh tế mở cửa, khuyến khích đầu tư nước ngoài, Việt Nam đã từng bước mở rộng quan hệ thương mại với các nước khu vực ASEAN và trên thế giới. Trong mối quan hệ thương mại này, nước ta với lợi thế là nguồn nhân lực dồi dào, có trình độ tay nghề cao, chiếm ưu thế trong gia công sản phẩm xuất khẩu. Nhưng trong những mối quan hệ thương mại quốc tế thì vẫn là nước chịu nhiều thiệt thòi do chưa thiết lập được hiệp định thương mại song phương và đa phương với những đối tác của mình, đặc biệt là những thị trường lớn như thị trường mậu dịch tự do Bắc Mỹ, thị trường mậu dịch tự do EU. Một minh chứng điển hình là việc xuất khẩu cá da trơn (cá tra, cá ba sa), tôm vào thị trường Mỹ, giày, dép vào thị trường EU. Với giá xuất khẩu rẻ, các doanh nghiệp Việt Nam bị các nước này áp đặt là bán phá giá. Các quốc gia này đã "bảo vệ sản xuất trong nước", bằng cách áp dụng chính sách bảo hộ thông qua đánh thuế nhập khẩu rất cao, gây rất nhiều bất lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam. Khi tham gia WTO, Việt Nam có cơ hội tiếp cận thị trường quốc tế rộng lớn với 148 thành viên, và vị thế thị trường ngang nhau với tất cả các quốc gia đó. Hàng hóa có thể thâm nhập thị trường khổng lồ này mà không gặp bất cứ trở ngại nào, miễn là không vi phạm những quy chế và cam kết đã ký, đủ sức cạnh tranh với hàng hóa cùng loại và hàng hóa thay thế.

Thứ hai, tham gia WTO sẽ nâng cao khả năng tiếp cận những công nghệ tiên tiến, những thị trường tài chính hàng đầu, tiếp thụ và vận dụng cho chiến lược phát triển. Thành viên WTO có những quốc gia là những nền kinh tế hàng đầu với công nghệ khoa học kỹ thuật, trình độ quản lý kinh tế, hệ thống tài chính, tiền tệ phát triển ở trình độ cao. Gia nhập WTO chúng ta sẽ có khả năng tiếp nhận những công nghệ mới, tiếp thụ và ứng dụng vào sản xuất, điều hành, quản lý, rút ngắn khoảng cách giữa các nước thành viên WTO; đồng thời tiếp nhận được nguồn nhân lực và vật lực lớn từ những nước này. Bên cạnh đó, WTO còn có những chính sách đặc biệt nhằm hỗ trợ các nước đang phát triển: hỗ trợ về kỹ thuật và đào tạo; hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng, giải quyết những vướng mắc trong quá trình chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế; tạo cơ hội cho những nước đang phát triển mở rộng thị trường thương mại quốc tế thông qua việc thâm nhập những thị trường lớn như dệt may, dịch vụ; yêu cầu các nước thành viên WTO phải bảo vệ lợi ích của những nước đang phát triển nếu các nước này áp dụng chính sách bảo hộ sản xuất trong nước hoặc những chính sách đối ngoại như chống bán phá giá, áp dụng những rào cản kỹ thuật trong thương mại quốc tế.

Thứ ba, tham gia WTO, vị thế của Việt Nam sẽ được nâng cao trong các mối quan hệ quốc tế; tạo nên thế và lực mới, sánh ngang hàng với các quốc gia thành viên của WTO trong việc biểu quyết những vấn đề liên quan đến WTO, đặc biệt trong quá trình giải quyết những vấn đề tranh chấp trong kinh doanh thương mại quốc tế.

Thứ tư, tham gia WTO góp phần cải thiện mức sống người dân. Cùng với việc mở cửa thị trường hàng hóa, dịch vụ, khi gia nhập WTO, Việt Nam sẽ là một bộ phận của thị trường toàn cầu. Luồng hàng hóa sẽ được chu chuyển qua thị trường Việt Nam cũng như tất cả các thị trường khác. Hàng hóa các nước khác sẽ thâm nhập thị trường Việt Nam. Ðể đủ sức cạnh tranh nhằm tồn tại và phát triển, các doanh nghiệp trong nước phải không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm giá thành, áp dụng công nghệ mới... Ðiều này sẽ khiến người tiêu dùng trong nước được hưởng lợi, vì cùng một mức thu nhập, họ có nhiều sự lựa chọn hơn với những hàng hóa được sử dụng, và đương nhiên là mức sống được nâng cao. Thị trường ô-tô là một thí dụ dễ thấy. Khi bảo hộ sản xuất trong nước bằng hàng rào thuế quan và giải pháp cấm nhập khẩu, giá ô-tô trong nước rất cao, gấp hai đến ba lần các nước trong khu vực và trên thế giới.

Thứ năm, gia nhập WTO là cơ hội để Chính phủ có thể xem xét những chính sách kinh tế, các cơ quan quản lý Nhà nước hoàn thiện hoạt động, dưới sự lãnh đạo của Ðảng, xây dựng đất nước ngày càng vững mạnh. Ðây là cơ hội để Chính phủ hoàn thiện các chính sách kinh tế, tham khảo và vận dụng sáng tạo vào điều kiện thực tiễn Việt Nam, đồng thời tuân thủ quy chế WTO sẽ giảm bớt hiện tượng tham nhũng, hối lộ trong hệ thống các cơ quan quản lý Nhà nước. Với tiêu chí tự do hóa thương mại, WTO kiên quyết xóa bỏ những rào cản bất hợp lý trong thương mại quốc tế, trong đó, các nước thành viên đều phải tuân theo. Những rào cản này có thể là chế độ hạn ngạch, chính sách cấm xuất, nhập khẩu, bảo hộ thuế quan. Ðây chính là nguyên nhân dẫn đến tình trạng tham nhũng như mua bán hạn ngạch, gian lận thuế, gian lận thương mại, làm giảm hiệu quả của hoạt động kinh doanh thương mại quốc tế. Xóa bỏ rào cản chính là xóa bỏ những tiền đề nảy sinh tham nhũng, hối lộ, làm trong sạch bộ máy Nhà nước, nâng cao hiệu quả thực hiện các chính sách kinh tế của Chính phủ.

Thách thức

Một là, thách thức lớn nhất đối với các doanh nghiệp Việt Nam là khả năng cạnh tranh chưa cao. Mở cửa thị trường, cùng với cơ hội mở rộng thị trường tiêu thụ, các doanh nghiệp Việt Nam phải đối mặt với thách thức rất lớn là cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài Mặc dù đã đạt được những thành tựu to lớn trong thời gian qua, nhưng nhìn chung, nền kinh tế Việt Nam vẫn còn những hạn chế cần khắc phục. Ở nhiều doanh nghiệp, tính tự chủ không cao, khả năng vận hành và tính thích ứng với sự thay đổi của môi trường kinh doanh còn hạn chế. Khi gia nhập WTO, các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế phải đối mặt với sự cạnh tranh quyết liệt với các doanh nghiệp nước ngoài về thị trường hàng hóa và dịch vụ. Các doanh nghiệp nước ngoài với ưu thế là nguồn vốn lớn, sản phẩm sản xuất trên nền tảng CNH, HÐH, nên chất lượng và giá cả phù hợp, thêm vào đó là kinh nghiệm chiếm lĩnh thị trường của những tập đoàn hàng đầu trong lĩnh vực thương mại quốc tế. Sự cạnh tranh này khiến các doanh nghiệp Việt Nam phải đứng trước hai sự lựa chọn :

- Chấp nhận sự cạnh tranh, liên tục đổi mới công nghệ, áp dụng khoa học - kỹ thuật, vận hành hệ thống quản lý mới, cải tiến và nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành, tăng cường dịch vụ nhằm để sản phẩm sản xuất ra có thể cạnh tranh với sản phẩm cùng loại, chiếm lĩnh được thị trường, hướng tới xuất khẩu và dần tạo uy thế trên thị trường.

- Doanh nghiệp không có khả năng cạnh tranh, bị đào thải khỏi thị trường. Ðiều này có thể xảy ra với những doanh nghiệp quá yếu về tiềm lực kinh tế cũng như thương hiệu, kinh nghiệm trên thương trường quốc tế. Sự đào thải của hàng loạt doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả sẽ khiến số lao động thất nghiệp tăng cao. Ðây là một trong những vấn đề cần giải quyết nhằm bảo đảm sự phát triển ổn định và bền vững.

Hai là, thách thức đối với nước ta là phải thực hiện hàng loạt những cam kết, những thỏa thuận đã ký từ những hiệp định thương mại song phương, đa phương, đồng thời tuân thủ triệt để quy chế WTO.

Những thành tựu đạt được trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội qua 20 năm đổi mới, cùng quá trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế đã khẳng định sự đúng đắn của con đường phát triển đất nước ta. Khai thác triệt để những lợi thế và chủ động vượt qua những thách thức khi gia nhập WTO là tiền đề quan trọng trong việc hội nhập thị trường toàn cầu, dần thích nghi và bắt kịp tốc độ phát triển của các nước tiên tiến trên thế giới. Trước mắt, Nhà nước cần hoàn thiện cơ chế, chính sách, các văn bản luật và hướng dẫn thi hành, đặc biệt là những lĩnh vực có liên quan đến những cam kết và thỏa thuận theo hiệp định thương mại song phương, đa phương và quy chế WTO đề ra. Bên cạnh đó, cũng cần đẩy nhanh quá trình tổ chức, sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước, trọng tâm là cổ phần hóa DNNN, chuẩn bị đầy đủ tiềm lực cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế sang những ngành mũi nhọn, có khả năng cạnh tranh cao. Những doanh nghiệp thuộc những ngành kinh tế mũi nhọn cần được tập trung mọi nguồn lực để nâng cao năng lực cạnh tranh, thích ứng với môi trường kinh doanh toàn cầu, trở thành "đầu tầu" của nền kinh tế. Những doanh nghiệp năng lực cạnh tranh thấp, hoặc làm ăn không hiệu quả cần được chuyển đổi hoặc bán, bảo đảm cho mọi nguồn lực kinh tế được đầu tư vào những lĩnh vực có hiệu quả nhất. Những thị trường hỗ trợ cho thị trường hàng hóa như thị trường tài chính, thị trường tiền tệ cần được quan tâm phát triển một cách đồng bộ. Ðồng thời, Nhà nước cần tập trung đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực, chuẩn bị cho quá trình tiếp thụ những tiến bộ khoa học - kỹ thuật, những công nghệ tiên tiến, những kinh nghiệm quản lý để đáp ứng yêu cầu của bộ máy quản lý đa năng và chuyên nghiệp hóa sau này.

Về phía các doanh nghiệp cần chuẩn bị sẵn sàng tiếp cận thị trường toàn cầu, trong đó, hiểu sâu sắc và nghiêm túc thực hiện những quy chế trong kinh doanh thương mại quốc tế, như vấn đề bản quyền, tiêu chuẩn, chất lượng, vệ sinh an toàn, bảo đảm quyền lợi người tiêu dùng... Cũng cần chuẩn bị thật tốt nguồn nhân lực với trình độ cao, nhằm tiếp thụ những công nghệ mới, nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm giá thành, tăng dịch vụ sau bán hàng, để hàng hóa Việt Nam có đủ sức cạnh tranh với sản phẩm của các nước khác.