Phân định rõ lợi ích, trách nhiệm quản lý tại chùa Bái Ðính và khu du lịch Tràng An

Mỗi ngày, có hàng chục nghìn lượt du khách đến chiêm bái, tham quan chùa Bái Ðính và Tràng An (tỉnh Ninh Bình), khiến nơi này thường quá tải trong những ngày Xuân, nhất là dịp cuối tuần. Ðã có nhiều phản ánh của du khách về sự luộm thuộm trong khâu tổ chức, bố trí phương tiện chở đò ở khu du lịch Tràng An và phàn nàn về ô nhiễm môi trường thiếu vệ sinh ở khu vực chùa Bái Ðính...

Du khách chen chúc đợi đò tại Khu du lịch Tràng An (Ninh Bình).
Du khách chen chúc đợi đò tại Khu du lịch Tràng An (Ninh Bình).

NHỮNG người làm dịch vụ trông giữ ô-tô, xe máy ở chùa Bái Ðính và Khu du lịch sinh thái Tràng An cho biết, lượng khách du lịch đông vào các ngày mồng 5, mồng 6 Tết Nguyên đán và số lượng khách nhiều nhất tập trung về đây vào ngày 16 và 17 tháng Giêng âm lịch. Anh Chiến, một nhân viên bảo vệ bến xe chùa Bái Ðính cho biết: "Có tới hàng nghìn xe ô-tô, trong đó lượng xe khách từ 24 đến 50 chỗ chiếm phần lớn, còn xe máy thì tới năm, sáu nghìn chiếc". Còn ở khu du lịch sinh thái Tràng An, lượng người tập trung đông ở bến đò dẫn đến tình trạng chen lấn, xô đẩy, mất an toàn, thậm chí có người bị ngã xuống nước do tranh nhau lên đò.

Hiện tại, khu vực chùa Bái Ðính và Khu du lịch sinh thái Tràng An do bốn đơn vị cùng quản lý. Ðó là Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Ninh Bình, Ban Quản lý quần thể danh thắng Tràng An, Doanh nghiệp xây dựng Xuân Trường và chính quyền địa phương. Tuy nhiên, trong cơ cấu tổ chức quản lý như vậy đã xuất hiện sự bất cập. Cụ thể là ba đơn vị, gồm: Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Ban Quản lý quần thể danh thắng Tràng An và chính quyền địa phương chỉ có trách nhiệm bảo vệ "vòng ngoài", lo an ninh trật tự, phòng chống trộm cắp, cướp giật, còn Doanh nghiệp xây dựng Xuân Trường là đơn vị trực tiếp tổ chức bán vé, bố trí nguồn nhân lực phục vụ chở đò cho du khách tham quan. Do kinh nghiệm chưa nhiều, cho nên việc bán vé cho du khách không cân đối so với số lượng đò làm dịch vụ chở khách, vì vậy mới có tình trạng quá tải khách chờ đò nhiều và tranh nhau lên đò.

Theo lãnh đạo Doanh nghiệp xây dựng Xuân Trường, đơn vị này đang phải cùng một lúc đảm nhận hai vai trò. Với tư cách đơn vị xây dựng, Doanh nghiệp Xuân Trường trực tiếp là bên B chịu trách nhiệm thi công các hạng mục công trình từ nguồn vốn ngân sách để xây dựng cơ sở hạ tầng Khu du lịch Tràng An và Bái Ðính. Còn bên A là Ban Quản lý quần thể danh thắng Tràng An thừa ủy quyền của UBND tỉnh Ninh Bình ký hợp đồng với doanh nghiệp. Tuy nhiên, Doanh nghiệp xây dựng Xuân Trường cũng là đơn vị tham gia vào lĩnh vực kinh doanh hoạt động du lịch trên địa bàn này. Cụ thể là bỏ vốn xây dựng khu chùa Bái Ðính từ chân lên tới đỉnh núi Ðính thuộc xã Gia Sinh, huyện Gia Viễn và đầu tư một phần vốn vào Khu du lịch sinh thái Tràng An.

Cho đến nay, Doanh nghiệp xây dựng Xuân Trường có sự đóng góp của một số nhà hảo tâm và du khách, xây dựng khu chùa Bái Ðính, bao gồm hệ thống chùa, hành lang La Hán, tượng phật... Riêng Khu du lịch sinh thái Tràng An, lúc đầu (khoảng năm 2004) là sự liên kết giữa ông Nguyễn Văn Son và Nguyễn Văn Trường (Giám đốc Doanh nghiệp xây dựng Xuân Trường), chỉ nhằm mục tiêu khơi thông một số cửa hang tại Khu du lịch Tràng An để làm dịch vụ du lịch, nhưng số cửa hang phát hiện được ngày càng nhiều và các hang lại nối với nhau (hang xuyên thủy). Những phát sinh này khiến tổng mức đầu tư lớn hơn trong khi vốn liếng của hai người không kham nổi. Ðiều này đòi hỏi phải có sự đầu tư bổ sung từ ngân sách nhà nước. Chính vì vậy, Khu du lịch sinh thái Tràng An hiện có sự đan xen đầu tư giữa vốn của doanh nghiệp và vốn nhà nước. Ðiều này khác với Khu du lịch Ðại Nam (Bình Dương) hay Khu du lịch Tuần Châu (Quảng Ninh) là do doanh nghiệp tự bỏ vốn xây dựng gần như toàn bộ.

Cũng từ sự chồng chéo, đan xen kể trên đã đưa đến nhiều khó khăn trong công tác quản lý trong khi các công trình của dự án chưa hoàn thành. Doanh nghiệp chưa thể bàn giao cho bên A (tỉnh Ninh Bình) những hạng mục Nhà nước đầu tư trong khi lượng du khách đến tham quan ngày càng đông (năm 2013 khoảng 4,3 triệu lượt người, năm 2014 dự kiến khoảng 4,8 triệu lượt du khách tham quan tỉnh Ninh Bình, trong đó khu chùa Bái Ðính và Tràng An chiếm khoảng 60% đến 70% trong số này). Việc xác định vốn của doanh nghiệp đầu tư vào Khu du lịch sinh thái Tràng An cụ thể bao nhiêu để Nhà nước có thể thanh toán cho doanh nghiệp là rất khó vào thời điểm này vì đòi hỏi cần một đơn vị kiểm toán độc lập mới thực hiện được, nhưng đây là việc làm rất cần thiết.

MẶC dù các công trình chưa hoàn thành, nhưng Doanh nghiệp xây dựng Xuân Trường đã và đang tổ chức các dịch vụ phục vụ du khách khai thác hai điểm đến này. Ðó là dịch vụ chở đò, dịch vụ xe điện, dịch vụ trông giữ ô-tô, xe máy... Toàn bộ các nguồn thu từ dịch vụ này do doanh nghiệp quản lý, song do nghiệp vụ du lịch chưa thật chuyên nghiệp, cho nên những lúc lượng khách tăng đột biến, các dịch vụ của doanh nghiệp không đáp ứng được yêu cầu, thậm chí có lúc còn thiếu bài bản, luộm thuộm; nhất là sự lộn xộn không đáng có khi khách đi đò đông, số vé bán vượt quá năng lực chuyên chở. Ðây cũng là nguyên nhân khiến các đò chở khách thường chở quá số người quy định (có lúc chở tới sáu người lớn trong khi quy định chỉ có bốn người). Phần lớn các đò chưa có phao cứu hộ cho du khách trong khi lịch trình phải qua 11 hang động và có những hang động hẹp chỉ đi một chiều với nhiều ngóc ngách, lại dài hàng trăm mét, tiềm ẩn nhiều nguy hiểm cho khách tham quan. Trong những dịp đông khách, khu du lịch chùa Bái Ðính thải ra lượng rác quá nhiều mà lực lượng nhân viên vệ sinh mỏng, không kham nổi công việc. Cũng vì khách quá đông cho nên xảy ra trường hợp nam giới vào sử dụng nhà vệ sinh nữ và ngược lại!

Ðể xác định rõ tổng mức đầu tư, từ đó phân định rõ quyền lợi, trách nhiệm, nghĩa vụ trong quản lý, các ngành chức năng ở Ninh Bình cần phối hợp với Doanh nghiệp Xuân Trường tổ chức kiểm toán (đối với những hạng mục có thể) nhằm xác định rõ vốn nhà nước và vốn doanh nghiệp. Ðối với những hạng mục doanh nghiệp tự bỏ vốn đầu tư trong khi nguồn vốn nhà nước chưa thể giải ngân, cũng cần xác định con số cụ thể. Một mặt phải kiểm tra chính xác vốn đầu tư mà Nhà nước còn nợ lại doanh nghiệp. Bên cạnh đó, vì doanh nghiệp khai thác dịch vụ có nguồn thu đáng kể như hiện nay, cho nên doanh nghiệp cần đóng góp vào ngân sách tương xứng nhằm từng bước hoàn lại nguồn vốn nhà nước đầu tư cơ sở hạ tầng, đồng thời phải tuân thủ việc in ấn vé theo quy định quản lý tài chính của Nhà nước. Hai bến xe ở Tràng An và Bái Ðính thuộc công trình Nhà nước đầu tư, tuy chưa hoàn thành, nhưng hiện nay đang có nguồn thu rất lớn, cần có sự điều tiết lợi nhuận từ nguồn phí trông giữ xe ở đây.

Dư luận cũng mong sự điều phối tỷ lệ giữa doanh nghiệp và Nhà nước về phí tham quan vì Nhà nước đầu tư cải tạo, nâng cấp các hạng mục trong khu vực Tràng An là rất lớn cho nên với 10% phí danh thắng Nhà nước được hưởng thì quá nhỏ so với tổng vốn đầu tư ở nơi này. Doanh nghiệp Xuân Trường chỉ là đơn vị trúng thầu khai thác dịch vụ chở đò cùng một số công việc khác, song lại được hưởng tới 90% (trong số 80 nghìn đồng/vé) phí danh thắng là điều bất hợp lý khi biết rằng Nhà nước đã phải đầu tư vào đây gần ba nghìn tỷ đồng. Qua đây, thấy cần có sự chấn chỉnh và điều chỉnh lại để phí danh thắng phải được thu vào ngân sách của địa phương với tỷ lệ hợp lý.