Xây dựng giá điện thế nào thì phù hợp?

Ở Việt Nam, ngành Điện đã bước vào giai đoạn đầu của thị trường, đó là chào giá cạnh tranh nguồn điện, vậy, giá điện được định thế nào cho phù hợp? Hiện có những quan điểm trái chiều quanh phương án của Bộ Công thương về việc cho phép khách hàng dùng điện sinh hoạt được lựa chọn cách tính giá điện, hoặc một giá hoặc theo biểu giá bán lẻ điện bậc thang sửa đổi (sẽ rút gọn từ 6 còn 5 bậc).

Đoàn công tác liên ngành kiểm tra công tác ghi chỉ số công-tơ tại Mê Linh (Hà Nội).
Đoàn công tác liên ngành kiểm tra công tác ghi chỉ số công-tơ tại Mê Linh (Hà Nội).

Nguyên tắc định giá điện

Đối với bất kỳ quốc gia nào, việc định giá điện thường được sử dụng để thực hiện các mục tiêu của Chính sách Năng lượng Quốc gia, thí dụ như hỗ trợ cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, khuyến khích nâng cao hiệu suất sử dụng năng lượng và khuyến khích sử dụng các dạng năng lượng mới và tái tạo, bảo vệ môi trường sinh thái. Kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy, việc định giá điện phải đạt được các yêu cầu sau: Giá điện phải được đa số khách hàng chấp nhận; giá điện phải cạnh tranh so với các loại nhiên liệu khác, mặc dù điện là một loại năng lượng tiên tiến; giá điện phải cạnh tranh đến mức có thể thu hút các nhà đầu tư; có thể cần phải áp dụng biện pháp bù giá giữa các nhóm khách hàng và cơ cấu giá điện phải đơn giản, dễ áp dụng.

Từ khi nền kinh tế nước ta chuyển sang kinh tế thị trường, Nhà nước đã cho tăng dần giá điện để phản ánh gần đúng với giá thành điện và đồng thời giảm dần gánh nặng bù lỗ của Nhà nước cho ngành điện. Cũng có nhiều người cho rằng, Nhà nước muốn tăng giá điện cho bằng mức các nước trong khu vực, trong khi thu nhập của dân cư còn thấp là điều thiếu thực tế. Vì việc tăng dần giá điện không phải là mục tiêu của Nhà nước. Mục tiêu cơ bản xuyên suốt chính là phải tăng giá điện lên đến mức để nó phản ánh đúng quan hệ cung - cầu của thị trường và chỉ có như vậy, thì mới có thể đồng thời đáp ứng được các mục tiêu của Chính sách Năng lượng Quốc gia. Mặt khác, cũng chỉ bằng cách như vậy, mới có thể khuyến khích việc sử dụng điện nói chung và các nguồn tài nguyên thiên nhiên một cách tiết kiệm, hiệu quả và bảo vệ môi trường sống của chúng ta.

Theo thống kê của Global Petrol Prices, năm 2018, Việt Nam là một trong những nước có giá điện bình quân thấp của thế giới, chỉ 0,07 USD/kWh, bằng một nửa giá điện bình quân của các nước trên thế giới năm 2018 là 0,14 USD/kWh. Việt Nam đứng thứ 21 trong số 93 nước được thống kê - tức là giá điện của Việt Nam cao hơn 20 nước, thấp hơn 72 nước khác. 

Chúng ta cũng biết là từ nửa cuối tháng 3-2019, giá bán lẻ điện tăng 8,36%, lên mức 0,08 USD/kWh, thấp hơn giá mua vào điện gió 2.223 đồng/kWh và thấp hơn điện mặt trời 0,935 USD/kWh.

Tại sao mua nhiều điện phải trả tiền với giá cao hơn?

Trước hết phải thấy rằng câu hỏi này luôn đúng với bất kỳ sản phẩm nào, nếu chúng ta xét vào thời điển khan hiếm của thị trường, tức là vào thời điểm mà cung không đủ để thỏa mãn nhu cầu. Điều này đúng với tình trạng của thị trường điện hiện nay ở nước ta. Tốc độ tăng trưởng nhu cầu điện của Việt Nam hiện nay từ 10% - 12%/năm và việc đáp ứng đầy đủ nhu cầu điện cho các ngành kinh tế - xã hội là hết sức khó khăn. Nhưng ở đây, vấn đề liên quan đến thắc mắc có lẽ là về “biểu giá bán lẻ điện sinh hoạt” hiện hành, trong đó quy định sáu bậc thang và theo lũy tiến tăng giá dần theo sản lượng điện tiêu thụ. 

Kinh nghiệm từ ngành điện các nước đang phát triển cho thấy, ở thời kỳ đầu, khi thu nhập quốc dân còn thấp, tỷ lệ người nghèo và thu nhập thấp trong xã hội còn cao, nếu đưa giá điện phản ánh đúng quan hệ cung - cầu của thị trường, nhóm khách hàng nghèo, thu nhập thấp không thể chịu đựng được. Bởi vậy, các nước đang phát triển phải áp dụng biện pháp bù giá giữa các nhóm khách hàng khi xây dựng cơ cấu biểu giá điện. Việt Nam cũng không phải là một ngoại lệ. Vì vậy, ngoài việc kiểm soát giá điện, Nhà nước còn có chính sách xây dựng một biểu giá điện theo hướng bù giá giữa các nhóm khách hàng. Mặc dù điều này về lâu dài là không có lợi, do sẽ làm sai lệch tín hiệu thị trường, nhưng lại là một biện pháp hết sức cần thiết trong giai đoạn hiện nay. Việc chia cho 100kWh đầu tiên cũng là nhằm bảo đảm đáp ứng nhu cầu sử dụng điện tối thiểu cho những người có thu nhập thấp. Một phần chênh lệch giá cũng được bù từ những khách hàng có thu nhập cao hơn. Điều này thể hiện sự ưu việt trong chính sách của Nhà nước, chứng tỏ vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.

Khách hàng sẽ “cân não” với việc chọn phương án giá

Động thái của Bộ Công thương trong việc đưa ra cách tính giá điện mới một mặt là để giảm nhiệt trước những phản ánh hóa đơn tiền điện tăng cao vừa qua, và mặt khác cũng nhằm đáp ứng đề xuất từ phía người tiêu dùng về việc  “mong muốn có thêm phương án để lựa chọn”. Theo quan điểm của bộ này, xét tổng thể, dù với phương án giá nào, tổng doanh thu trên sản lượng tiêu thụ điện thương phẩm không thay đổi, có nghĩa là giá điện thu được bằng giá bình quân, như hiện tại là 1.864,44 đồng/kWh (chưa gồm thuế VAT).  

Nếu áp dụng một giá điện so biểu giá bậc thang, bất kể sản lượng tiêu thụ điện bao nhiêu, các hộ sinh hoạt đều được tính theo một đơn giá thay vì cách lũy tiến bậc thang (dùng càng nhiều trả đơn giá càng cao như hiện nay), người dùng ít điện sẽ phải trả tiền tăng, dùng nhiều điện sẽ trả tiền giảm. Lý do rất đơn giản là giá bậc thấp hơn giá bình quân phải kéo lên bằng giá bình quân, bậc đang cao hơn giá bình quân phải kéo xuống bằng giá bình quân để thực hiện bán một giá. 

Bản tính toán này chỉ thực hiện tính toán đơn giản về tiền, không bàn đến chính sách giá điện và các vấn đề khác. Đơn cử, tính cho một hộ dùng điện một tháng: Nếu dùng 100kWh thì một giá so với giá bậc thang phải trả thêm 19.000 đồng/tháng (tăng 11,2%); nếu dùng 200kWh phải trả thêm 7.400 đồng (tăng 1,98%). Hộ khách hàng tiêu thụ 300kWh giảm 56.500 đồng (0,9%); 400kWh giảm 149.200 đồng (16,44%); 600kWh giảm 455.000 đồng (28,57%); 700kWh giảm 458.000 đồng (25,6%) và 1000kWh giảm 767.200 đồng (28,79%). Trong khi đó, hộ khách hàng sử dụng điện sinh hoạt bình quân dưới 400 kWh hiện chiếm 70 - 80% tổng số khách hàng sử dụng điện sinh hoạt.

Nếu xây dựng phương án không ảnh hưởng đến nhóm khách hàng là hộ nghèo và hộ thu nhập thấp, mức giá của phương án một giá chắc chắn sẽ phải cao hơn giá điện bình quân hiện nay. Như vậy, đưa ra phương án một giá điện sẽ có thêm sự lựa chọn cho khách hàng sử dụng nhiều điện suốt cả năm, nhưng với khách hàng tiêu thụ điện cao vào mùa hè, các mùa còn lại ít hơn, chưa chắc đã tối ưu khi chuyển sang một giá. Một yếu tố nữa, với miền bắc, trong một năm, thường hóa đơn tiền điện cao nhất từ tháng 5 đến tháng 8, những tháng còn lại do thời tiết nên chênh lệch sản lượng tiêu thụ cao hơn miền trung và miền nam. Do vậy, nếu khách hàng lựa chọn một giá cần xem lại sản lượng tiêu thụ điện trong một năm để có quyết định chính xác.

Trên thế giới, vẫn tồn tại song song cả hai cách tính áp dụng biểu giá điện bậc thang và tính theo giá cố định. Chẳng hạn, tại Xin-ga-po, giá bán điện sinh hoạt cho hộ gia đình chỉ có một mức duy nhất là 24,39 cent một kWh, nhưng điều đáng nói, mức giá này được điều chỉnh định kỳ ba tháng một lần để phản ánh sự thay đổi chi phí của giá điện. Ở Đức, giá điện không được Nhà nước quy định mà theo từng công ty cung cấp và chênh lệch giá giữa các công ty phân phối không lớn. Ngoài tiền điện, mỗi năm người dân phải trả thêm khoảng 100 Euro cho tiền cung cấp đường điện và các dịch vụ khác. Tương tự ở Niu Di-lân có khoảng 20 đơn vị cung cấp điện. Giá điện không tính theo bậc thang mà theo thỏa thuận giữa người sử dụng và công ty cung cấp. Giá điện thường bao gồm giá tính trên mỗi kWh cùng với phí quản lý hằng ngày và chi phí khác. 

Tuy nhiên, xu hướng thế giới bây giờ đang chuyển từ một giá sang bậc thang, bởi cách tính này vừa giúp tiết kiệm năng lượng, lại tái phân phối giàu nghèo.

Hiện nay, các quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới đang áp dụng giá điện sinh hoạt lũy kế ba mức như Nhật Bản; 5, 6, 7 mức như Ca-na-đa (Tô-rôn-tô, Quê-bec), Mỹ (Ca-li-phoóc-ni-a), Pa-ra-goay, Ni-ca-ra-goa, A-rập Xê-út, Ba-ren, Bru-nây, Ai Cập, Đài Loan (Trung Quốc), Hàn Quốc, Ma-lai-xi-a, Thái-lan, In-đô-nê-xi-a, Tuy-ni-di, U-gan-đa... Trong đó, Nam Phi, Hàn Quốc sáu bậc; Hồng Công (Trung Quốc) bảy bậc. Một số quốc gia trong khu vực, có hệ thống nguồn và lưới điện tương đồng Việt Nam như Phi-li-pin tám bậc; Thái-lan 10 bậc, trong đó sử dụng dưới 150 kWh/tháng tính bảy bậc, sử dụng trên 150 kWh/tháng tính thêm ba bậc và Ma-lai-xi-a 10 bậc. Hàn Quốc không chỉ tính giá điện lũy kế theo kWh sử dụng mà còn có mức lũy kế theo mùa: Vào mùa hè và mùa đông giá cho kWh thứ 1.001 trở đi cao gấp 7,65 lần giá cho 200 kWh đầu tiên (62 cent/kWh so với 8,1 cent). Đài Loan (Trung Quốc) có hai biểu giá lũy tiến cho hai mùa khác nhau, biểu giá cho bốn tháng mùa hè gồm sáu bậc, còn biểu giá cho các tháng còn lại là năm bậc.