Hãy ứng xử nhân văn hơn với... thơ

Trong xã hội đương đại, thơ xuất hiện ngày càng nhiều, đến mức, người ta dùng khái niệm "lạm phát thơ". Tình trạng rất ít người đọc, còn nhà thơ bị xem nhẹ, tác phẩm in ra không bán được, chủ yếu để biếu tặng, dường như đã nói lên đời sống dư thừa của thơ. Gần đây, một số hoạt động nhằm tôn vinh thơ, nhưng lại được tổ chức một cách nghiệp dư, càng làm cho hiệu ứng này lan tỏa…

Thơ đương đại Việt Nam hằng năm vẫn ồ ạt ra đời. Tạm gác câu chuyện của những câu lạc bộ, chỉ xét đến những ấn phẩm thơ được in thành tập hoặc đăng tải trên báo chí, đó quả là con số khổng lồ. Trong quang cảnh khá đìu hiu của thơ ca thế giới, nơi mà thơ trở nên hiếm hoi (bởi không còn mấy ai quan tâm), thì ở Việt Nam thơ vẫn nở rộ. Ðiều đó có thể được lý giải từ nhiều góc độ. Tuy nhiên, trên thế nhìn nhân văn, tích cực, thơ đã tạo nên một cộng đồng của xúc cảm và suy tư. Vẫn nhận thấy, trong hầu hết các sáng tác của những cây bút có thể xem là lão thành hiện nay, như Hữu Thỉnh, Trương Ðăng Dung, Nguyễn Quang Thiều, Trần Quang Quý, Mai Văn Phấn, Nguyễn Việt Chiến, Ðỗ Trọng Khơi…; đến các cây bút thế hệ sau như Miên Di, Vi Thùy Linh, Ðoàn Văn Mật, Nguyễn Quang Hưng, Nguyễn Phong Việt, Hoàng Ðăng Khoa; trẻ hơn nữa như Lữ Thị Mai, Du Nguyên, Linh Lê, Nguyễn Thị Thùy Linh,… những trăn trở, suy tư về cuộc sống, con người và những gì rất gần gũi với bản thể hôm nay. Ðọc thơ họ, dẫu còn âu lo, nhưng vẫn thấy thơ dường như là con đường dẫn đến sự an tĩnh cho tâm hồn; phải viết ra như là cách thức của đời sống. Do vậy, chưa cần đến việc xuất bản, in ấn hay tiếp nhận của công chúng, ngay hành vi viết đã mang trong nó giá trị của sự cứu rỗi. Chẳng hạn, với Nguyễn Quang Thiều, việc ông làm thơ, vẽ tranh, viết tản văn, phê bình,… nói lên những trạng thái sống của con người. Từ thời Ngôi nhà mười bảy tuổi, Sự mất ngủ của lửa, Những người đàn bà gánh nước sông đến Châu thổ, người ta nhận thấy những suy tư ngày càng dầy lên, cồn cào, chực như bục vỡ. Cảm thức về cuộc sống, kiếp người với những biến chuyển qua lăng kính một cá nhân nhạy cảm, giàu suy tư buộc phải hiện hình thành câu chữ, hình tượng. Ðiều đó làm cho Nguyễn Quang Thiều cân bằng trở lại. Một gương mặt rất trẻ là Nguyễn Thị Thùy Linh (sinh năm 1991), vừa đoạt giải nhì cuộc thi thơ trên Tạp chí Văn nghệ quân đội năm 2016. Những bài thơ đoạt giải như Khi anh yêu em, Lala bé bỏng, Mở cửa ngục… cho thấy thế giới của xúc cảm, suy tư chuyển hóa thành nhịp điệu, hình ảnh và nhạc tính; trong sự gợi mở của lời làm nên vẻ đẹp của thi ca. Một thế giới non tươi, trẻ trung nhưng đôi chỗ chạm đến cái trầm tĩnh cần thiết của trải nghiệm; vừa trần thế lại vừa phảng phất chút huyền hồ siêu thực. Thơ Linh giăng mắc ở khoảng giữa của những đối cực như thế. Bởi Linh còn trẻ? Và đôi khi, chính Linh cũng chưa định rõ cho mình; thơ là nơi cô có thể sắp đặt và kiến tạo một thế giới riêng, giúp cô vượt qua những điều không như ý trong đời sống. Với nhiều nhà thơ khác cũng vậy. Họ vừa là nhà báo, công an, bộ đội, giáo viên, kỹ sư, bác sĩ, nhân viên truyền thông,… vừa làm thơ. Thơ chính là gia vị không thể thiếu, thậm chí tối thiết giúp duy trì cuộc sống của họ.

Như vậy, an toàn tinh thần trong xã hội đương đại chính là ích dụng của thơ. Dù hay, dở và hiện ra với hình thái nào, thơ vẫn là nơi cư ngụ của tâm hồn, sự hiện hữu của con người. Rộng hơn, thơ kiến tạo một không gian sống. Bởi vậy, thái độ coi thường hay rẻ rúng thơ chính là biểu hiện của một xã hội đang thiếu đi những thông hiểu và chia sẻ. Làm cụ thể hóa các dữ kiện vô hình, thơ như một phương thức tái lập cân bằng, một van xả hay một nguồn trợ lực cho sự sống. Vì những điều không nên định giá là hay dở đó, ích lợi của thơ luôn là điều đáng nói trong bối cảnh đương đại. Thơ cứu rỗi con người trước những nguy cơ của xã hội với nhiều biến động, bất trắc, trong những hiện diện vô cảm; là một cách tự chữa trị của con người trong đời sống rất dễ tổn thương hiện nay; đồng thời hình thành những không gian nhân tính. Chúng ta dường như được tiếp thêm sức mạnh, tinh thần yêu nước qua Tổ quốc gọi tên mình của Nguyễn Phan Quế Mai, Tổ quốc nhìn từ biển của Nguyễn Việt Chiến. Khi trầm tư trước đời sống, người đọc có thể nhận ra những cảm xúc sâu lắng về tồn tại, hiện hữu của kiếp người qua thơ của "thi sĩ - triết gia" Trương Ðăng Dung (Những kỷ niệm tưởng tượng). Khi đã mỏi mệt với dòng đời, đôi khi lắng lại để đọc thơ ba câu của Mai Văn Phấn (Thả),… Ðó chính là cơ hội của con người, mà nhiều khi vì bận rộn, mê mải đã vô tình đánh mất. Cả sáng tạo và thưởng thức thơ giúp con người sống chậm lại, cảm nhận được những cái tinh vi, nhỏ bé, mong manh hơn của đời sống. Một tiếng thơ chính là một tâm sự, một "tiếng lòng". Vì thế mà con người được tái tạo, được bồi đắp, tiếp thêm năng lượng.

Thơ đi về đâu? Ðó là câu hỏi mà việc đặt ra đã hàm chứa thái độ bất bình đẳng hay những định kiến về giá trị, ích dụng của thơ. Sự thật, thơ chẳng đi đâu cả, nó vẫn ở giữa cõi nhân gian đầy bộn bề, xáo trộn. Từ lăng kính "an ninh con người", chúng ta hy vọng những cái nhìn, thái độ và ứng xử một cách nhân văn hơn với thơ; qua đó, với những bản thể khác. Ðiều đó, có thể "làm dịu đi những nỗi âu lo và sợ hãi", giảm trừ những động thái chia tách, ngăn cản con người đến gần nhau hơn để hiểu biết và đồng cảm.

NGUYỄN THANH TÂM

(Viện Văn học Việt Nam)