Giáo sư Trần Văn Khê từ trần

NDO -

NDĐT – Giáo sư Trần Văn Khê, nhà nghiên cứu âm nhạc cổ truyền nổi tiếng của Việt Nam đã trút hơi thở cuối cùng vào rạng sáng 24-6.

GS Trần Văn Khê và ca nương Phạm Thị Huệ. Ảnh TL.
GS Trần Văn Khê và ca nương Phạm Thị Huệ. Ảnh TL.

Trước đó, khoảng cuối tháng 5, GS Trần Văn Khê trở bệnh nặng, phải vào bệnh viện vì suy tim, phổi nặng và suy thận. Ông bị suy hô hấp, nhịp tim chậm, phải thở bằng máy. Di nguyện của GS Trần Văn Khê là mong muốn thi hài của mình được quàn tại nhà riêng ở đường Huỳnh Đình Hai, quận Bình Thạnh, TP Hồ Chí Minh. Hiện tại, do GS Trần Quang Hải, con trai của ông chưa về kịp nên thi hài của ông đang được tạm thời đặt tại Bệnh viện Nhân dân Gia Định. Một tiểu ban tang lễ được sẽ được lập ra gồm những người thân thiết của ông như nhà văn - nhà báo Nguyễn Đắc Xuân, ông Trần Bá Thùy (chồng của nữ thi sĩ Tôn Nữ Hỷ Khương)...

GS Trần Văn Khê (24-7-1921 – 24-6-2015) là tiến sĩ ngành âm nhạc học người Việt Nam đầu tiên tại Pháp và từng là giáo sư tại Đại học Sorbonne, Pháp, thành viên danh dự Hội đồng Âm nhạc quốc tế, UNESCO. Ông là người có bề dày trong hoạt động nghiên cứu, giảng dạy, có công trong quảng bá âm nhạc Việt Nam nói riêng, văn hóa Việt Nam nói chung ra thế giới.

Trần Văn Khê sinh tại làng Đông Hòa, tổng Thuận Bình, tỉnh Mỹ Tho (nay là huyện Châu Thành, Tiền Giang) trong một gia đình có bốn đời làm nhạc sĩ, nên từ nhỏ ông đã làm quen với nhạc cổ truyền. Ông nội ông là Trần Quang Diệm (Năm Diệm), cha ông là Trần Quang Chiêu (Bảy Triều), cô là Trần Ngọc Viện (tức Ba Viện, người đã sáng lập gánh cải lương Đồng Nữ ban), đều là những nghệ nhân âm nhạc cổ truyền nổi tiếng. Cụ cố ngoại ông là tướng quân Nguyễn Tri Phương. Ông ngoại ông là Nguyễn Tri Túc, cũng say mê âm nhạc, có ba người con đều theo nghiệp đờn ca. Một trong số đó là Nguyễn Tri Khương, thầy dạy nhạc và nhà soạn tuồng cải lương nổi tiếng.

Riêng mẹ ông là Nguyễn Thị Dành (Tám Dành), sớm tham gia cách mạng, gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam vào năm 1930 và bị thương rồi mất trong năm đó. Cha ông vì thương nhớ vợ nên qua đời năm 1931.

Mồ côi từ rất sớm, mẹ mất năm 9 tuổi, cha mất năm 10 tuổi, nên ông cùng với hai em là Trần Văn Trạch (về sau là một ca sĩ nổi tiếng, có biệt danh Quái kiệt), Trần Ngọc Sương được cô Ba Viện nuôi nấng. Cô Ba Viện rất thương, cho anh em ông đi học võ, học đàn kìm. Năm lên 6 tuổi ông đã được dạy đàn kìm, đàn cò, đàn tranh, biết đàn những bản dễ như "Lưu Thuỷ", "Bình Bán vắn", "Kim Tiền", "Long Hổ Hội".

Năm 10 tuổi, Trần Văn Khê đậu tiểu học, sang Tam Bình, Vĩnh Long nhờ người cô thứ năm nuôi. Đến đây Trần Văn Khê được học chữ Hán với nhà thơ Thượng Tân Thị. Trong kỳ sơ học năm 1934 tại Vĩnh Long được đậu sơ học có phần Hán Văn. Cả tỉnh chỉ có Trần Văn Khê và Nguyễn Trọng Danh được đậu bằng chữ Hán. Năm 1934, ông vào trường Trung học Trương Vĩnh Ký, được cấp học bổng. Học rất giỏi, năm 1938 ông được phần thưởng là một chuyến du lịch từ Sài Gòn đến Hà Nội, ghé qua Phan Thiết, Đà Nẵng, Nha Trang, Huế. Nhờ đậu tú tài phần nhất năm 1940, thủ khoa phần nhì năm 1941, ông được đô đốc Jean Decoux thưởng cho đi viếng cả nước Campuchia xem Chùa Vàng, Chùa Bạc tại Nam Vang, viếng Đế Thiên Đế Thích. Thời gian này, ông cùng Lưu Hữu Phước, Võ Văn Quan lập dàn nhạc của trường, và dàn nhạc của học sinh trong câu lạc bộ học sinh mang tên là Scola Club của hội SAMIPIC. Ông là người chỉ huy hai dàn nhạc đó.

Năm 1942, Trần Văn Khê ra Hà Nội học y khoa. Tại đây, cùng với Huỳnh Văn Tiểng, Lưu Hữu Phước, Mai Văn Bộ, Phan Huỳnh Tấng (nay đổi thành Phạm Hữu Tùng), Nguyễn Thành Nguyên, hoạt động trong khuôn khổ của Tổng hội Sinh viên. Năm 1943, ông cưới bà Nguyễn Thị Sương.

Ông sang Pháp du học từ năm 1949. Năm 1958, ông đậu Tiến sĩ Văn khoa (môn Nhạc học) của Đại học Sorbonne. Từ năm 1963, ông dạy trong Trung tâm Nghiên cứu nhạc Đông phương, thuộc Viện Nhạc học Paris (Institut de Musicologie de Paris). Ông là thành viên của Viện Khoa học Pháp, Viện sĩ thông tấn Viện Hàn lâm châu Âu về Khoa học, Văn chương và Nghệ thuật cũng như nhiều hội nghiên cứu âm nhạc quốc tế khác; là Chủ tịch Hội đồng Khoa học của Viện quốc tế nghiên cứu âm nhạc bằng phương pháp đối chiếu của Đức (International Institute for Comparative Music Studies).

Sau 50 năm nghiên cứu và giảng dạy ở Pháp, ông trở về sinh sống và tiếp tục sự nghiệp nghiên cứu và giảng dạy âm nhạc dân tộc tại quê nhà. Ông cũng là người đã tặng cho TP Hồ Chí Minh 420 kiện hiện vật quý, trong đó có nhiều loại nhạc cụ dân tộc và tài liệu âm nhạc.

GS Trần Văn Khê có bốn người con: GS Trần Quang Hải cũng là nhà nghiên cứu nhạc dân tộc tại Paris, Trần Quang Minh hiện là kiến trúc sư ở TP Hồ Chí Minh), Trần Thị Thủy Tiên hiện sống tại Paris, và Trần Thị Thủy Ngọc, nhạc sĩ đàn tranh và làm việc cho một ban nghiên cứu Đông Nam Á của trung tâm quốc gia nghiên cứu khoa học ở Paris.

Trong sự nghiệp nghiên cứu và hoạt động âm nhạc của mình, GS Trần Văn Khê đã được trao nhiều giải thưởng cao quý như Giải thưởng nhạc cụ dân tộc tại Liên hoan Thanh niên Budapest (1949), Giải thưởng âm nhạc của UNESCO ở Hội đồng Quốc tế Âm nhạc (1981), Huy chương về Nghệ thuật và Văn chương của Bộ Văn hoá Pháp (1991), Huy chương Vì Văn hoá Dân tộc của Bộ Văn hoá Việt Nam (1998), Huân chương Lao động hạng nhất do Chủ tịch Trần Đức Lương trao (1999), Giải thưởng Đào Tấn do Trung tâm Nghiên cứu bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc trao tặng (2003), Giải thưởng Phan Châu Trinh về nghiên cứu (2011).