Liên kết đào tạo quốc tế đang bị buông lỏng

Đáp ứng nhu cầu của xã hội, các chương trình liên kết đào tạo (LKĐT) đang xuất hiện ngày càng nhiều tại Việt Nam. Tuy nhiên, sự lỏng lẻo trong các cơ chế giám sát của cơ quan chức năng, và sự thiếu thận trọng của người học khi tiếp cận chương trình đang là những "lỗ hổng", "vùng mờ" làm nảy sinh nhiều tiêu cực, gây hậu quả không nhỏ cho người học và xã hội.

Lựa chọn đối tác uy tín là cơ sở để Viện Đào tạo quốc tế (ĐH Bách khoa Hà Nội) xây dựng chương trình liên kết đào tạo chất lượng cao. Ảnh:THANH HẢI
Lựa chọn đối tác uy tín là cơ sở để Viện Đào tạo quốc tế (ĐH Bách khoa Hà Nội) xây dựng chương trình liên kết đào tạo chất lượng cao. Ảnh:THANH HẢI

Thượng vàng hạ cám

Sự tồn tại của các chương trình đào tạo liên kết ở một nước kém phát triển là một điều tích cực vì nó góp phần đáp ứng mục tiêu phát triển trong thời đại kinh tế tri thức. Đây cũng là một xu hướng của giáo dục đại học (GDĐH) trên thế giới, trong đó những nước có nền giáo dục tiên tiến cung cấp dịch vụ giáo dục cho những nước kém phát triển hơn. Điều này phổ biến đến nỗi nó đã được nêu trong Hiệp định thương mại và dịch vụ (GATS) của tổ chức WTO.

Nhưng giáo dục xuyên biên giới cũng luôn hàm chứa những rủi ro lớn cho các nước đang phát triển, như các tổ chức quốc tế đã cảnh báo. Không khó hiểu, bởi để phán đoán đúng về chất lượng của một chương trình đào tạo đại học nước ngoài đòi hỏi phải có một trình độ khá cao và ít nhiều trải nghiệm về giáo dục quốc tế, điều mà người tiêu dùng giáo dục ở các nước đang phát triển rất thiếu.

Sự thiếu thông tin, thiếu kinh nghiệm và thiếu khả năng phán đoán vừa nêu đã khiến cho việc LKĐT quốc tế tại Việt Nam trong thời gian qua ít phát huy được những lợi ích cho người tiêu dùng giáo dục và cho toàn xã hội, mà trái lại, tạo ra khá nhiều hệ lụy. Có thể tóm tắt tình hình LKĐT tại Việt Nam trong câu thành ngữ "thượng vàng hạ cám" - trong đó vàng thì ít mà cám lại rất nhiều.

Dư luận vẫn chưa quên được các vụ xì-căng-đan nổ ra liên tiếp trong khoảng thời gian 2009-2011, khi báo chí liên tục phanh phui ra các trường dỏm, bằng giả, chương trình ảo... Câu hỏi đặt ra là: Cơ quan quản lý ở đâu? Xin thưa: Cơ quan quản lý có tồn tại nhưng hầu như chỉ vào cuộc sau khi có những vụ việc bị vỡ lở, thiệt hại đã xảy ra và báo chí đã phanh phui. Tất nhiên, đến lúc ấy thì mọi rủi ro đều do người tiêu dùng hứng chịu, còn mọi lỗi lầm đều thuộc về các đơn vị đã thực hiện liên kết. Hóa ra, trong tất cả những thiệt hại mà xã hội phải gánh chịu, chỉ có nhà quản lý là luôn luôn an toàn, không chịu rủi ro mà dường như cũng chẳng bao giờ chịu trách nhiệm gì cả.

Một thực trạng khá phổ biến là các cơ sở đào tạo tự thực hiện liên kết mà không xin phép. Đây rõ ràng là lỗi của các cơ sở, nhưng cơ quan quản lý cũng không phải là không có trách nhiệm, vì họ hoàn toàn có thể khống chế được tình trạng trên. Chẳng hạn, tại TP Hồ Chí Minh, trong mùa tuyển sinh 2013 Sở GDĐT đã tăng cường kiểm tra giấy phép các cơ sở đào tạo có tổ chức quảng bá và tuyển sinh nhằm làm giảm tình trạng liên kết bừa bãi như hiện nay. Giá như chúng ta làm điều này từ trước thì đã tránh được biết bao tổn thất cho xã hội.

Ngay cả một cơ sở đào tạo đại học hàng đầu của Việt Nam là ĐH Quốc gia Hà Nội cũng mắc sai lầm. Vì thiếu thận trọng không chịu tìm hiểu thông tin trước khi quyết định, ĐH Quốc gia Hà Nội đã đẩy người học và cả chính mình vào một cuộc phiêu lưu đầy rủi ro khi liên kết với Đại học Griggs, không hề biết rằng ngay từ khi bắt đầu bước vào thị trường Việt Nam thì trường này đã có nhiều khó khăn về tài chính và đang đứng trước nguy cơ bị đóng cửa.

Điều tệ nhất đã xảy ra. Năm 2011, ĐH Griggs bị xóa sổ. Không rõ vô tình hay cố ý, chương trình liên kết tại ĐH Quốc gia Hà Nội vẫn tiếp tục hoạt động dưới danh nghĩa cũ với một đối tác đã không còn tồn tại. Sự việc bị phanh phui, các học viên bị thiệt hại về thời gian, công sức đã đành, mà ĐH Quốc gia Hà Nội và các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan cũng tốn rất nhiều chi phí để tìm ra cách giải quyết ổn thỏa nhất cho người học. Một tổn thất quá lớn cho toàn xã hội; một kết cục không ai mong đợi. Rủi ro này thật ra quá dễ để ngăn ngừa, vì chỉ cần thực hiện nghiêm chỉnh quy trình kiểm tra đối tác trước khi liên kết.

Bỏ ngỏ kiểm soát

Ngay cả những chương trình đã được cấp giấy phép cũng không phải là không có vấn đề. Để giảm chi phí, các chương trình liên kết ở Việt Nam thường sử dụng giảng viên tại chỗ nhưng lại không kiểm soát chất lượng một cách nghiêm ngặt. Việc sử dụng giảng viên Việt Nam là một điều đáng khuyến khích; nhưng các cơ sở đào tạo của Việt Nam thường không có đủ giảng viên đáp ứng cả hai yêu cầu chuyên môn và ngoại ngữ, ảnh hưởng nặng nề đến chất lượng giảng dạy. Ngoài ra, chương trình liên kết thường bị cắt xén khá nhiều so với chương trình gốc; thi cử thường không nghiêm vì nhiều cơ sở đào tạo chỉ mong có tỷ lệ đậu cao để tiếp tục thu hút học viên mới.

Các chương trình liên kết ở Việt Nam thường cho học viên miễn hoặc nợ chứng chỉ ngoại ngữ ở đầu vào, thỉnh thoảng mới có nơi yêu cầu nộp chứng chỉ khi đã gần tốt nghiệp. Do không đủ trình độ ngoại ngữ nên học viên thường gặp khó khăn khi đọc tài liệu và nghe giảng. Việc gian lận trong học tập và thi cử cũng thường xuyên xảy ra mà không có ai kiểm soát.

Có thể khẳng định chất lượng của rất nhiều chương trình liên kết quốc tế tại Việt Nam hiện đang rất bấp bênh. Nguyên do chính là các chương trình này hiện đang nằm ở "vùng mờ", bên ngoài sự kiểm soát của cả nước cung cấp lẫn nước tiếp nhận.

Hai việc cần làm ngay

Vì sao cũng là nơi tiếp nhận giáo dục xuyên biên giới, nhưng những quốc gia lân cận như Thái-lan và Ma-lai-xi-a đã không trở thành nạn nhân như Việt Nam? Câu trả lời là: Các nước này đã tận dụng xu hướng liên kết quốc tế để chọn lọc các trường đại học lớn đến mở chi nhánh trên đất nước mình, trở thành nơi thu hút người học từ các nước lân cận đến học (và tất nhiên là ngoại tệ của họ).

Ngay từ giữa thập niên trước, OECD và UNESCO đã đưa ra những khuyến nghị cho các nước đang phát triển nhằm tránh những rủi ro liên quan đến giáo dục xuyên biên giới. Riêng với Việt Nam ở giai đoạn hiện nay, cần thực hiện ngay hai điều, đó là: "bảo đảm chất lượng" và "cung cấp thông tin".

Về bảo đảm chất lượng, nước ta hiện nay vẫn chỉ tập trung vào việc kiểm soát đầu vào, chủ yếu là khâu cấp phép. Nhưng như vậy là chưa đủ, mà còn phải kiểm tra trong suốt quá trình thực hiện. Các quy định về kiểm định chất lượng ở Việt Nam hiện nay hoàn toàn không đề cập đến chương trình liên kết quốc tế, một thiếu sót cần phải bổ sung ngay!

Quan trọng không kém, thậm chí còn quan trọng hơn, là việc cung cấp đầy đủ thông tin cho người học và toàn xã hội. Người học hiện đang bị quay mòng mòng trong một mớ hỗn độn thông tin không chọn lọc. Lẽ ra, khi cho phép các chương trình liên kết quốc tế được triển khai trên đất nước mình, cơ quan chức năng cần thiết lập một hệ thống thông tin miễn phí và dễ tiếp cận để người tiêu dùng có thể có những lựa chọn đúng đắn, tránh được các rủi ro. Đây là một khuyến cáo quan trọng của ẻCD và UNESCO được nhiều nước trong khu vực thực hiện nghiêm ngặt.

Trong bối cảnh đất nước đang hội nhập kinh tế ngày càng sâu rộng, việc hạn chế những tiêu cực và phát huy những điểm tích cực của LKĐT quốc tế tại Việt Nam có ý nghĩa hết sức quan trọng để góp phần đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước. Sự vào cuộc tích cực của cơ quan chức năng bằng hệ thống cung cấp thông tin toàn diện, cùng những chế tài, kiểm soát chặt chẽ chất lượng các chương trình đào tạo chính là chìa khoá an toàn, hiệu quả nhất cho hoạt động mang tính quốc tế này.