PGS, TS Nguyễn Viết Nhung:

Sau 40 năm lịch sử điều trị lao, nhóm các nhà khoa học Việt Nam hợp tác cùng các nhà khoa học thế giới đã nghiên cứu và phát triển thành công phác đồ điều trị lao 4 tháng, là một bước tiến quan trọng trong lộ trình chấm dứt bệnh lao trên toàn cầu. Áp dụng phác đồ mới, thuốc mới, cụm công trình nghiên cứu này đã cứu sống hàng nghìn người bệnh lao đa kháng, tiền siêu kháng và siêu kháng thuốc, trước đây coi như vô phương cứu chữa.

Đây là một trong những kết quả có giá trị thiết thực với người bệnh của cụm công trình “Nghiên cứu ứng dụng kỹ thuật tiên tiến trong chẩn đoán, điều trị bệnh hô hấp tại Việt Nam” vừa được vinh dự nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh về khoa học công nghệ. Trong cuộc trò chuyện đầu năm 2023, PGS, TS Nguyễn Viết Nhung, nguyên Giám đốc Bệnh viện Phổi Trung ương, Chủ nhiệm chương trình Chống lao Quốc gia (đại diện nhóm tác giả) bày tỏ niềm tin về tương lai chấm dứt bệnh lao tại Việt Nam.

CHUNG KHÁT VỌNG CHẤM DỨT BỆNH LAO

Sức mạnh trí tuệ tập thể đã làm nên công trình tuyệt vời vừa vinh dự được nhận giải thưởng Hồ Chí Minh. Công trình được đánh giá đặc biệt xuất sắc và có giá trị rất cao. Xin ông chia sẻ về hành trình tiếp cận và đi đến những kết quả nghiên cứu tuyệt vời đó?

PGS, TS Nguyễn Viết Nhung: Chúng tôi rất xúc động, vui mừng và vinh dự khi nhận giải thưởng Hồ Chí Minh vì công trình này là sản phẩm của cả chuyên ngành phổi. Chúng tôi đã tập hợp được sức mạnh về trí tuệ và công nghệ từ các nhà khoa học lớn trong nước và trên thế giới từ Australia, Hoa Kỳ, Hà Lan, Anh.

140 năm qua, từ khi thế giới phát hiện ra vi khuẩn lao, bệnh lao vẫn làm hàng triệu người dân đau khổ, thậm chí tử vong vì căn bệnh hoàn toàn có thể chữa được. Trong khi đó, chỉ với 3 năm, chúng ta đã khống chế được Covid-19. Sự đau đáu đó trở thành khát vọng chung của các nhà khoa học là làm thế nào chấm dứt bệnh lao.

Công trình bao gồm 23 nghiên cứu, trong đó nổi bật nhất là nghiên cứu về lao, từ cơ bản đến lâm sàng và nghiên cứu phát triển. Đây là cụm công trình nghiên cứu có giá trị rất cao về khoa học công nghệ, tập trung vào những vấn đề cốt lõi cần giải quyết, với các thiết kế nghiên cứu chuẩn mực quốc tế, áp dụng nhiều kỹ thuật tiên tiến, đột phá và mang tính sáng tạo, phù hợp với điều kiện văn hóa-kinh tế-xã hội Việt Nam, sử dụng các giải pháp đồng bộ để tối ưu hóa hiệu quả trên cộng đồng.

Tôi có may mắn gặp được Giáo sư Guy Marks (đồng tác giả của giải thưởng), người Australia 10 năm trước và chúng tôi nhận ra không thể thụ động chờ người bệnh tìm đến bệnh viện. Chủ động tiếp cận bệnh nhân, tiếp cận người nhóm nguy cơ cao nhất là mũi nhọn chúng tôi triển khai. Chúng tôi quyết định tập trung nghiên cứu trên diện rộng, đánh mẻ lưới thật lớn xem trong 3-4 năm tình hình dịch tễ giảm bao nhiêu.

Cà Mau là địa phương chúng tôi chọn vì dân số tương đối biệt lập tham gia vào nghiên cứu ACT3 (phát hiện chủ động bệnh lao trong cộng đồng). 4 năm nghiên cứu cho kết quả phát hiện chủ động rộng khắp cộng đồng bằng công nghệ mới làm giảm tỷ lệ mắc lao nhanh hơn tới 44% so với cách triển khai thông thường. Nếu kết hợp hiệu ứng tác dụng phòng chống lao thường quy, con số này tăng lên 72%.

Nếu sau 4 năm áp dụng mà giảm được 72% ca mắc lao trong cộng đồng thì lo gì không chấm dứt bệnh lao. Đó là bằng chứng truyền cảm hứng tạo niềm tin cho những người quyết tâm chấm dứt bệnh lao trên toàn thế giới.

Trên cơ sở đó, chúng tôi đề xuất một chiến lược gọi là 2X gồm X-quang sàng lọc tìm ra người nghi lao và X-pert để khẳng định mắc lao cho phát hiện chủ động để có thể sàng lọc nhanh số lượng lớn người có nguy cơ mắc lao. Bằng chứng rõ rệt là tỷ lệ phát hiện tăng lên.

Mô hình này là tinh hoa được đúc kết, đã cho Việt Nam vị thế của một nước đi đầu, đã đề xuất cho Hội đồng Tư vấn Chiến lược của WHO nhằm phổ biến và nhân rộng mô hình trên phạm vi toàn cầu.

Một nhánh khác trong nghiên cứu, chúng tôi có cơ duyên làm việc với các chuyên gia tại Trường đại học California ở San Francisco (GS Payam Nahid, UCSF, đồng tác giả của giải thưởng). Chúng tôi nghiên cứu phác đồ mới cho điều trị lao với 2 mục tiêu là rút ngắn thời gian điều trị và an toàn để có tỷ lệ khỏi nhiều nhất. Vậy là sau 40 năm, chúng ta có phác đồ điều trị lao 4 tháng, đột phá về mặt điều trị, tác dụng phụ giảm rất nhiều.

Việc rút ngắn thời gian điều trị chỉ còn 2/3 so với phác đồ hiện tại đã làm tăng khả năng tuân thủ điều trị, giảm nguy cơ xuất hiện tác dụng phụ nghiêm trọng, nâng cao chất lượng điều trị cho người bệnh.

Việc áp dụng sáng tạo các phác đồ có thuốc mới được khuyến cáo của WHO tai Việt Nam cũng mang lại kết quả to lớn, kết quả điều trị cao hơn trung bình trên thế giới khoảng 15- 20%, tỷ lệ khỏi trung bình 75% trong khi thế giới là 56%. Cụm nghiên cứu này đã góp phần cứu sống hàng nghìn người bệnh lao đa kháng, tiền siêu kháng và siêu kháng thuốc, trước đây coi như vô phương cứu chữa.

Một nhánh nữa là nhóm nghiên cứu xác định gánh nặng dịch tễ bệnh lao trên toàn quốc và những khoảng trống cần can thiệp từ hệ thống y tế, từ cộng đồng người bệnh và từ hệ thống chính trị.

Hợp tác với các chuyên gia quốc tế, 2 nghiên cứu điều tra phạm vi toàn quốc đã được tiến hành cách nhau 10 năm, chúng ta biết được dịch tễ bệnh lao diễn biến như thế nào tại Việt Nam, từ đó xây dựng được các mô hình can thiệp và đưa ra được mục tiêu chấm dứt bệnh lao vừa có cơ sở khoa học vừa mang tính thực tiễn cao. Kết quả của các nghiên cứu đã tham mưu cho Chính phủ và Bộ Y tế ban hành những chính sách y tế hiệu quả, đồng bộ, bảo đảm cung cấp cho người bệnh một hệ thống chăm sóc sức khỏe phổi toàn diện từ tuyến trung ương đến địa phương, đồng thời hoạch định các chiến lược và Chương trình hành động quốc gia về chấm dứt bệnh lao.

Chiến lược 2X phát huy hiệu quả tuyệt vời trong sàng lọc ca nhiễm lao.

Chiến lược 2X phát huy hiệu quả tuyệt vời trong sàng lọc ca nhiễm lao.

Một điểm sáng của nghiên cứu là Việt Nam triển khai thành công ca ghép phổi đầu tiên người cho sống với kết quả rất thành công. Theo dõi và điều trị biến chứng thải ghép sau ghép phổi là một vấn đề rất khó khăn kể cả ở các nước có nền y học phát triển, tuy nhiên sau hơn 4 năm, sức khỏe của bệnh nhân đầu tiên được ghép phổi tại Việt Nam vẫn ổn định. Thành công từ cụm công trình nghiên cứu này đã đưa Việt Nam vào bản đồ ghép phổi của thế giới, đưa kỹ thuật chuyên ngành hô hấp nước ta lên tầm cao mới. Từ đó, kỹ thuật ghép phổi có thể được áp dụng thường quy tại nhiều bệnh viện hiện nay.

Công trình thực hiện thí điểm tại tỉnh Cà Mau trong 4 năm.

Công trình thực hiện thí điểm tại tỉnh Cà Mau trong 4 năm.

Điểm sáng nữa liên quan đến cúm A H5N1. Chẩn đoán sớm và điều trị các bệnh nhân mắc cúm A (H5N1) đã chứng tỏ năng lực y tế của Việt Nam ngang tầm khu vực và trên thế giới. Trong giai đoạn cao điểm bùng phát dịch H5N1 các năm 2004-2006, nhờ có các quy trình chẩn đoán, điều trị và dự phòng dịch bệnh toàn diện, Việt Nam đã khống chế được bệnh H5N1 thành công với tỷ lệ tử vong thấp là 39% so với thế giới là 61%.

Item 1 of 3

NIỀM TIN TỪ SAU NHỮNG NGHIÊN CỨU THỰC ĐỊA

Cụm công trình có giá trị khoa học rất lớn nhằm giải quyết một vấn đề y tế cộng đồng rất khó khăn là bệnh hô hấp, đặc biệt là bệnh lao ở nước ta. Những giá trị này có ý nghĩa như thế nào với cộng đồng, thưa ông?

PGS, TS Nguyễn Viết Nhung: Mỗi năm chúng ta ước tính có thêm 170 nghìn người mắc lao mới. Công trình nhằm mục tiêu phát hiện bệnh lao chủ động từ sớm, đưa vào điều trị sớm bằng phương pháp chữa bệnh tiên tiến, giảm tỷ lệ tử vong. Nếu không chữa lao, tỷ lệ tử vong trong 1 năm khoảng 20% nhưng khi được điều trị tiếp cận với lao thì hiện nay tỷ lệ tử vong chỉ dưới 3%.

Việc ứng dụng thành công các kỹ thuật tiên tiến để sàng lọc, chẩn đoán sớm và xây dựng phác đồ mới điều trị bệnh lao đã giúp giảm gánh nặng bệnh lao tại Việt Nam nhanh hơn nhiều so với mức trung bình của toàn thế giới, với tỷ lệ giảm là 4,5% mỗi năm tại Việt Nam so với 1,5% mỗi năm trên toàn cầu. Dịch tễ lao giảm trong 10 năm qua đã giúp tiết kiệm được 8.781 tỷ đồng, tương đương với ngăn ngừa 284.000 người mắc lao mới nếu không có các biện pháp phòng, chống bệnh.  

Kết quả nghiên cứu ghép phổi mang lại cho người bệnh hy vọng sống thêm với cuộc sống mới khỏe mạnh, giúp người bệnh giảm bớt chi phí, thay vì sang nước ngoài ghép tạng, họ có thể được ghép phổi ngay tại Việt Nam với tạng của người Việt Nam. Chẩn đoán sớm, điều trị bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, điều trị chít hẹp khí quản/phế quản, ho ra máu và ung thư phế quản đã góp phần cứu sống bệnh nhân, cải thiện chất lượng cuộc sống và kéo dài tuổi thọ cho người bệnh. Đặc biệt, chẩn đoán sớm và điều trị cúm A (H5N1) là một công trình có ý nghĩa hết sức quan trọng về mặt xã hội, giúp giảm tỷ lệ tử vong tốt hơn so với trung bình thế giới, ngăn chặn dịch xâm nhập Việt Nam, tạo sự tin tưởng của người dân vào ngành y tế của nước nhà.

Nghiên cứu khẳng định bằng chứng chúng ta có thể chấm dứt bệnh lao chứ không phải là chuyện phi thực tế. Cụm công trình đã chỉ ra con đường làm sao để bệnh lao không còn là vấn đề của y tế công cộng. Nhưng có đi không và đi như thế nào hoàn toàn phụ thuộc vào chúng ta, phụ thuộc vào cả cộng đồng, cả hệ thống chính trị từ Trung ương đến địa phương. Vì vậy, chúng ta đã có Ủy ban Quốc gia chấm dứt bệnh lao, huy động được quốc tế tăng cường nguồn lực, củng cố mạng lưới và vận động nhân dân chủ động tham gia. Bài học Covid 19 có thể tác động tích cực tới việc chấm dứt bệnh lao ở Việt Nam.

Thưa ông, những giá trị đó giúp định vị vị trí Việt Nam như thế nào trên thế giới trong việc tiên phong trong công tác phòng, chống lao?

PGS, TS Nguyễn Viết Nhung: Năm 2014 sau chiến lược chấm dứt bệnh lao thế giới, tôi được dự trong cuộc họp tham vấn của WHO về chấm dứt bệnh lao, gồm có 90 nhà khoa học trên thế giới ngay tại phòng họp lịch sử trao giải Nobel. Tôi đoán rằng lúc bấy giờ chỉ có khoảng 15% nhà khoa học có thể tin tưởng chấm dứt bệnh lao, 50% chỉ coi là khẩu hiệu mang tính truyền thông, còn lại 35% người bán tín bán nghi.  

Công trình này đã cung cấp bằng chứng khoa học, khẳng định việc chấm dứt bệnh lao là hoàn toàn khả thi. Tôi có niềm tin chấm dứt bệnh lao và Việt Nam được đánh giá là mô hình mẫu, đi đầu. Đây là quả “bom tấn” truyền cảm hứng cho cộng đồng chống lao trên toàn thế giới.

Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc trao Giải thưởng Hồ Chí Minh cho đại diện nhóm tác giả.

Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc trao Giải thưởng Hồ Chí Minh cho đại diện nhóm tác giả.

Nhóm tác giả nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh.

Nhóm tác giả nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh.

TIẾP TỤC MỞ RỘNG NGHIÊN CỨU

Những nghiên cứu giá trị nào sẽ tiếp tục được phát huy hơn nữa, những hướng nghiên cứu nào mà nhóm tác giả tiếp tục triển khai kể từ thành công của cụm công trình đạt giải Hồ Chí Minh này, thưa ông?

PGS, TS Nguyễn Viết Nhung: Chúng tôi tiếp tục phát huy giải thưởng lớn này về khoa học công nghệ để lan tỏa đến mạng lưới hơn 19 nghìn cán bộ trên cả nước cùng tiến đến mục tiêu cao cả là chấm dứt bệnh lao. Chấm dứt bệnh lao là tránh đi cái chết của hàng chục nghìn người và giúp hàng trăm nghìn gia đình hạnh phúc.

Chúng tôi tiếp tục khuyến cáo phải phát hiện chủ động bằng chiến lược 2X. Nếu với Covid-19, chúng ta đưa ra chiến lược 20-80, nghĩa là công việc y tế chỉ chiếm 20% trong kiểm soát Covid 19 tại cộng đồng, còn lại 80% công việc không cần nhân lực y tế mà có thể huy động các tổ chức đoàn thể và cộng đồng thực hiện. Với lao, mô hình đó sẽ là 40 - 60, tức là 40% là nguồn lực y tế nhưng phải có 60% là sự chung tay của cộng đồng. Quản lý bệnh lao cần tích hợp với quản lý các bệnh mạn tính khác tại cộng đồng như hen, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD), cao huyết áp, đái tháo đường, … Đây sẽ là một định hướng lớn cần triển khai nghiên cứu trong thời gian tới.

Bệnh viện Phổi Hải Phòng phối hợp với Trung tâm Hỗ trợ sáng kiến Phát triển cộng đồng (SCDI) tổ chức khám sàng lọc cho người dân tại xã Thanh Sơn, huyện Kiến Thụy, TP Hải Phòng.

Bệnh viện Phổi Hải Phòng phối hợp với Trung tâm Hỗ trợ sáng kiến Phát triển cộng đồng (SCDI) tổ chức khám sàng lọc cho người dân tại xã Thanh Sơn, huyện Kiến Thụy, TP Hải Phòng.

Việc huy động cộng đồng chủ động tham gia bảo vệ sức khỏe cho mình và cho gia đình là một mục tiêu quan trọng, toàn dân đã hiểu với Covid 19 ta cần phải làm gì, với lao cũng rất nhiều điểm tương đồng, cần phải truyền thông ngay vì lao đã cướp đi mạng sống của hàng chục nghìn người mỗi năm, kéo dài hàng trăm năm nay. Mỗi gia đình có 1 người, nhất là phụ nữ biết về lao và bảo vệ gia đình sẽ rất hiệu quả. Mô hình này là một hướng nghiên cứu mở rộng từ cụm công trình. Chúng tôi sẽ đăng ký đề tài nghiên cứu này ở cấp bộ hoặc cấp Nhà nước.

Bên cạnh đó, phác đồ điều trị lao 4 tháng vẫn dài, phải phát triển thêm phác đồ ngắn hơn, sử dụng các thuốc mới và phác đồ phải sử dụng ít thuốc hơn. Các kỹ thuật phát hiện cũng cần liên tục cải thiện về độ nhạy làm sao phát hiện nhanh nhất và không bỏ sót người mắc bệnh để có thể chữa khỏi hết nguồn lây tại cộng đồng thì chúng ta sẽ chấm dứt bệnh lao.

Cụm công trình cũng gợi ý cho chúng tôi một định hướng quan trọng là áp dụng Đông y vào điều trị lao và một số bệnh phổi khó như bệnh phổi kẽ, nấm phổi, NTM phổi… Vì sức khỏe cộng đồng trong đó có chính bản thân mỗi chúng ta là nguồn cảm hứng bất tận cho các nhà khoa học chuyên ngành lao và bệnh phổi Việt Nam.

Xin cảm ơn PGS, TS Nguyễn Viết Nhung!

Item 1 of 5

Tổ chức thực hiện: THẢO LÊ
Nội dung: THIÊN LAM
Ảnh: THIÊN LAM, BVCC
Clip: THIÊN LAM
Trình bày: THIÊN LAM