Con chữ vùng cao hết khô lại ướt

Một năm học mới đã đến. Với nhiều làng bản nơi miền quan san nghèo khó, đấy là một sự kiện không kém phần ấn tượng. Ðơn giản vì sẽ không có gì để nhớ nếu ở đó không có những lớp học - những lớp học bám vào sườn núi như thể mọc ra từ lòng đất. Tre nứa đơn sơ, nắng mưa dầu dãi, những trang sách giáo khoa cũng bạc màu như đất và trên những gương mặt lấm láp của học trò, chúng tôi như đọc được những khát vọng lấp lánh, tinh khôi.

Căn phòng của cô giáo vùng cao Ðiện Biên.
Căn phòng của cô giáo vùng cao Ðiện Biên.

Nếu bạn lên vùng cao, biên giới xin hãy một lần ghé thăm các lớp học. Nơi có những cô giáo, mà theo chúng tôi, chỉ riêng việc họ đến đây và trụ lại đây, cũng đủ để chúng ta nói về họ như nói về những người anh hùng, như nói về những tấm lòng yêu nước tha thiết và cụ thể, trung thực và trong sáng. Thông thường, như một cặp vận trù học, bên cạnh mỗi lớp học tre nứa đơn sơ bao giờ cũng có ít nhất một căn nhà đơn sơ tre nứa. Căn nhà ấy là nơi "an cư" của các cô giáo, trong suốt một năm học với những ngày dài vui buồn lẫn lộn, thương nhớ mênh mang. Tại đó, trên cái bàn ghép tạm bằng mảnh ván xù xì, có một cái đèn dầu lụi bấc, trang giáo án sương gieo ẩm mốc và mấy lá thư nhàu nhĩ vết thời gian. Ðặc biệt, không có mùi phấn son như ta thường thấy trong các căn phòng thiếu nữ, mà thay vào đó là mùi nước mắm, mùi cá khô để lâu ngày và cả mùi hoai ngải của rau tàu bay vừa hái nhân một lần các cô vượt quãng đường rừng gần chục cây số đi tắm nhờ ở khe suối bản bên.

Ngày lại ngày, mấy cô giáo ở điểm trường lẻ thui thủi vào ra. Các cô không chờ kỳ phát lương, bởi tiền ở đây cũng chả để làm gì; mà các cô chờ bác bưu tá xã với cái túi thổ cẩm trong đựng công văn cho trường và ước gì có cả dù chỉ là bức thư gửi cách đây một tháng giờ mới tới. Suốt mấy tháng mùa mưa, sáng sáng các cô ra đứng ngoài đầu dốc, dõi mắt về phía con đường mòn vắt hững hờ trên lưng chừng núi, lẩm nhẩm đếm từng cái bóng nhạt nhòa và bé xíu của các em học sinh đang cặm cụi đến lớp. Con chữ vùng cao hết khô lại ướt, ví như khát vọng học tập giúp các em đủ can đảm tới trường...

Ðêm qua mưa nhiều, nước suối bản Hạ dâng cao, vậy là hôm nay có lớp vắng tới một nửa học sinh. Bàn ghế thừa ra, chỗ ngồi thừa ra, còn cô giáo thì cảm thấy lòng mình thiếu vắng - một nỗi thiếu vắng mà càng yêu nghề các cô càng cảm thấy rõ nhất, rõ như nỗi đau của kẻ bất lực, không biết làm gì hơn. Ðêm ở bản Hạ gió rít từng hồi, mái lán run bần bật dưới những cơn mưa nguồn xối xả. Sóng điện thoại di động chỉ đến đầu bản, gặp dãy núi cao rồi dừng lại như một trò "đùa dai", thành thử mọi thông tin đều nhờ vào đường thư. Nếu là việc thật cần kíp thì đã có những chiếc xe máy cũ kỹ được cuốn thêm mấy tầng xích vào lốp - đó là thứ phương tiện duy nhất đắc dụng, trên những con đường mòn trơn trượt như có cả ngàn tấn dầu ăn đổ xuống...

Tôi đã gặp ở đây những cô giáo năm - sáu năm không về phép thăm quê, những cô giáo gần 40 tuổi mới lần đầu tiên xây dựng gia đình với một anh trai bản... Cách đây hơn 20 năm, tại Trường tiểu học Sa Dung (xã Sa Dung, huyện Ðiện Biên Ðông, tỉnh Lai Châu cũ), có một cô giáo dạy ở bản lẻ, đi bộ ra trường trung tâm để xin về thành phố Ðiện Biên Phủ nghỉ đẻ. Ban giám hiệu chưa kịp giải quyết, thì chuyến đi bộ hơn chục cây số đường rừng đã khiến cô giáo trở dạ ngay tối hôm đó. Trạm y tế xã không có người trực đêm, cô hiệu trưởng đề xuất một ý kiến táo bạo là mời trưởng bản chứng kiến rồi lập biên bản phá khóa trạm y tế, mượn bàn đẻ và một số dụng cụ phụ khoa. Ca đẻ tương đối khó, tuy nhiên cái khó hơn cả là hội đồng nhà trường không ai biết gì về kỹ thuật hộ sinh. Trong tình thế không còn cách lựa chọn nào khác, cô hiệu trưởng đã làm một việc hết sức mạo hiểm là tự tay đỡ đẻ cho cô giáo. Gần hai chục thầy, cô giáo quây chung quanh sản phụ, thay nhau làm hô hấp nhân tạo. Lúc đưa đứa bé ra được thì toàn thân đã bắt đầu tím tái vì ngạt, được cắt rốn bằng dao cạo râu của các thầy. Cuối cùng, ơn giời là "mẹ tròn con vuông", cái rốn đứa nhỏ sau đấy cũng không bị nhiễm trùng. Có lẽ, tạo hóa công bằng đã đặt ra khó khăn này, thì cũng rộng lòng cho người ta nghị lực và sự may mắn để vượt qua khó khăn khác. Chuyện cô hiệu trưởng Trường tiểu học Sa Dung đỡ đẻ đến bây giờ nhiều người dân ở Sa Dung còn nhắc, chẳng biết có giống ở đâu không?

Cụm lớp bản Hạ có hai phòng học hai ca, gồm một lớp 1, một lớp 2, một lớp 3 và một lớp 4, thuộc biên chế "Trường tiểu học số 1" của xã. Tại đây có hai cô giáo đơn thân và một gia đình nhà giáo có chồng là thầy Vũ Khắc Ph. dạy lớp 1 và vợ là cô Phạm Thị T. dạy lớp 2. Họ đã có một con gái chín tháng tuổi, sáng chồng lên lớp thì vợ ở nhà trông con và ngược lại. Có thời, người ta thường nói: "Một mái nhà tranh, hai trái tim vàng" nhưng ở đây, không biết trái tim thầy Vũ Khắc Ph. và cô Phạm Thị T. đã hóa vàng chưa, chứ túp lều hạnh phúc của họ thì trông mà ái ngại. Hằng tháng, để có được mấy lạng bột cho con, thầy Vũ Khắc Ph. phải vượt chặng đường gần 80 cây số ra trung tâm huyện mới có chỗ xay thuê. So với anh chị em giáo viên độc thân, những gia đình nhà giáo vất vả gấp nhiều lần. Không có ti-vi, không có sách báo và lắm khi, thèm có được ai đấy để nói chuyện, thậm chí, thèm cả nghe một tiếng còi ô-tô...

Có một triết gia từng nói, rằng hạnh phúc là sự hy sinh, còn nơi đây, nhiều người thì hy sinh hạnh phúc cho sự nghiệp chung. Các thầy, cô giáo vùng cao vĩ đại là ở chỗ ấy.