Bước chậm trên cầu Hiền Lương

Kỳ 2: Tượng đài ký ức

Bao nhiêu cặp vợ chồng đã gặp lại nhau sau ngày 30/4/1975 lịch sử? Bao nhiêu nữa những lứa đôi đã đưa dâu qua cây cầu này? Và hơn thế, người dân nước Việt nào đã đủ lớn khôn để nếm trải cảnh chia ly đằng đẵng suốt 21 năm mà chẳng luôn cất giữ trong ký ức mình cái khoảnh khắc qua cầu Bến Hải ấy.

Nụ cười bên bến Hiền Lương

Chúng ta đã trải qua ngàn trận đánh/ Ðể bây giờ đất nước được vẹn nguyên/ Cho con đò khỏi "gác mái tình duyên"/ Và chiếc cầu, "chặng đường thôi nghẽn lại... Ðấy là những câu thơ của nhà thơ Cảnh Trà viết về cây cầu lịch sử ngay sau ngày thống nhất trong bài thơ được nhiều người biết đến: "Ðưa dâu qua cầu Bến Hải". Chuyện đám cưới vốn dĩ bình thường, nhưng "đưa dâu qua cầu Bến Hải" là chuyện đặc biệt. Bởi chàng trai ở Vĩnh Linh, bờ Bắc, cô gái ở Cam Lộ, bờ Nam. Không ai đi tìm được tuổi tên nhân vật chính của đám cưới đầu tiên đưa dâu qua cây cầu này sau ngày 30/4/1975, nhưng sức khái quát của câu chuyện trong thi ca là niềm vui của bao nhiêu lứa đôi sau ngày thống nhất. Chẳng riêng gì những chàng trai cô gái được đưa nhau qua cầu không còn cách trở, đó còn là cuộc đoàn viên của những chồng vợ hai bờ, mà ngày thống nhất như là ngày cưới thứ hai trong đời họ.

Trong một chuyến đi dọc theo đôi bờ con sông Hiền Lương để tìm lại những cuộc tình may mắn được đoàn viên, tôi tình cờ biết được câu chuyện vợ chồng ông Châu và bà Dĩnh ở ngay bờ Nam, sát chân cầu.

Thà chịu cảnh "chồng Bắc vợ Nam" nếu như người ở miền Cửu Long, người ở châu thổ sông Hồng cho đành, đằng này chỉ cách nhau một dòng sông rộng chưa đầy trăm mét, hai mươi năm chồng vợ chỉ nhìn nhau qua con nước Hiền Lương, vì thế tình yêu ấy càng quặn thắt, đau đáu hơn.

Hôm chúng tôi tìm đến nhà ông Trần Ngọc Châu ở thôn Xuân Hòa xã Trung Hải (huyện Gio Linh), ngôi nhà nằm cạnh bờ sông, từ bến nước sau nhà nhìn lên chiếc cầu vừa mới phục chế không đầy một trăm mét, nhìn qua bờ bắc, nơi có đồn công an vũ trang Hiền Lương và chiếc cổng chào "tiền đồn" cũng chỉ rộng khoảng ngần ấy, vậy mà suốt tuổi thanh xuân của vợ chồng ông đã đành đoạn chia biệt "bên ni bên nớ".

Tham gia kháng chiến từ năm 1947, khi mới 15 tuổi, năm 1953 gia đình dạm hỏi cô Dĩnh người cùng làng, ông Châu vượt sông về, vùng quê ông hồi đó còn tề ngụy, ngày đám cưới ông núp trên... trần nhà, nhìn xuống vợ một mình bái lạy trước bàn thờ gia tiên. Bọn tề đánh hơi được ông về cưới vợ đã theo dõi rất chặt, đêm đó ông lên lại chiến khu mà chưa thấy rõ mặt vợ mình. Hơn một năm sau, hiệp định Giơ-ne-vơ ký kết, ông Châu chưa kịp tìm về quê nhà thì cầu Hiền Lương đã chia làm đôi với hai mầu sơn khác nhau. Ông Châu được điều động về Công an vũ trang Hiền Lương phía bờ Bắc, bà Dĩnh ở lại bờ Nam để vừa làm cơ sở cách mạng, vừa phụng dưỡng cha mẹ già, nuôi em nhỏ.

Dù biết được tin chồng mình đang ở bên ấy nhưng bà Dĩnh không thể nào gặp được chồng. Bà nghĩ ra cách phải xuống bờ sông giả bộ giặt giũ áo quần để nhìn sang bên đó coi hình dáng chồng mình thế nào, thấp hay cao, béo hay gầy. Như biết được ý định của vợ, mỗi lần thấy bà xách xô áo quần xuống sông là ông giả bộ đi tuần. Ðến đoạn đối diện nhau ông giả vờ đằng hắng để cho bà liếc mắt sang. "Lúc đầu tui thấy ông đằng hắng nhưng hôm đó cách nhau đoạn sông rộng nên chỉ thấy dáng người nhỏ bé, chớ có nhìn thấy mặt được mô", bà Dĩnh kể lại. Lần sau bà Dĩnh thường chọn đoạn sông hẹp nhất (khoảng 50 m) để nhìn thấy mặt chồng, nhưng cũng chỉ được vài lần thì bọn cảnh sát phát hiện nên những lần sau bà làm động tác giả vờ lấy tay nghiêng vành nón lại để liếc mắt qua ông Châu. Ông Châu cười hề hà bảo: "Lúc ấy ở bên ni sông, tui ngắm nhìn bà thoải mái lắm, nhưng bên nớ bà mần răng mà nhìn tui được một phút...". Nhiều hôm nhớ chồng bà Dĩnh lại tìm cách ra bờ sông vài lần, khi thì đi trồng sắn, tắm giặt, lúc đi mò cua, bắt ốc... để được nhìn thấy bóng dáng người chồng thân yêu của mình.

Mãi đến cuối năm 1966 ông Châu nhận nhiệm vụ vượt tuyến vào Nam, hoạt động ở vùng thượng nguồn Bến Hải. Cơ sở cách mạng bố trí đưa bà Dĩnh lên chiến khu để được gặp chồng. "Lần đầu tiên hai vợ chồng tui mới nhìn rõ mặt nhau, tui khóc, ông khóc... Nhưng cũng chỉ nhìn được nhau, rồi tui nhận nhiệm vụ đi công tác", - bà Dĩnh nhớ lại giây phút hạnh phúc nhất của đời mình. Cuộc gặp gỡ chỉ diễn ra trong thời gian ngắn rồi cơ sở đưa bà Dĩnh vượt tuyến ra Bắc. Trớ trêu thay, lần này ông Châu phải ở lại hoạt động ở miền Nam. Mãi cho đến khi đất nước thống nhất, vợ chồng ông Châu và bà Dĩnh mới được sống bên nhau.

Cũng ở ngôi làng nhỏ bên sông Bến Hải này tôi đã gặp chị Hàng Thị Chẫm. Người nữ du kích bé nhỏ từng khét tiếng là một "nữ xạ thủ" của Gio Linh, sau ngày hòa bình chị lại trở thành một nữ hộ sinh, một "bà đỡ" mát tay nổi tiếng trong vùng. Hình ảnh cô du kích bắn tỉa năm xưa và một "bà đỡ" nâng niu những em bé chào đời hôm nay là câu chuyện thật nhưng lại mang vác sức khái quát của lịch sử trong số phận một đời dân. Cũng như đất nước có hàng vạn dòng sông nhưng lịch sử lại ghé chân lên dòng sông hiền hòa bé nhỏ ở miền đất gió cát này, để rồi cùng với độ lùi của thời gian, người ta hiểu hơn cái giá vô bờ của ngày thống nhất, để trân quý hơn những khoảnh khắc hòa bình. Và đi qua dòng sông này không chỉ có những đoàn quân...

Tháng 3/2014, cầu Hiền Lương được phục chế nguyên trạng 2 màu sơn xanh và vàng.

Tháng 3/2014, cầu Hiền Lương được phục chế nguyên trạng 2 màu sơn xanh và vàng.

Giấc mơ hoa

Cùng với độ lùi thời gian, ta sẽ càng hiểu hơn cái giá vô bờ của ngày thống nhất, để trân quý hơn những khoảnh khắc hòa bình.

Cùng với độ lùi thời gian, ta sẽ càng hiểu hơn cái giá vô bờ của ngày thống nhất, để trân quý hơn những khoảnh khắc hòa bình.

Hai mươi năm trước, khi đôi bờ Hiền Lương chưa được tôn tạo trở thành một khu lưu niệm bề thế như hôm nay, có một phóng viên chiến trường đã mang về đầu cầu phía bờ Nam trồng một cây bồ đề để tưởng nhớ những nhà báo đã ngã xuống trên chiến trường Ðông Dương. Người trồng cây bồ đề ấy là Tim Page, một phóng viên ảnh người Anh nổi tiếng, một trong những người sáng lập Quỹ IMMF (Quỹ tưởng niệm báo chí Ðông Dương). Cả chiến trường Ðông Dương mênh mông nhưng Tim Page đã chọn mảnh đất này để trồng một cây xanh nhắc nhở. Rồi năm tháng qua đi, những trận lụt lịch sử tràn qua đây đã khiến cây bồ đề năm xưa Tim Page trồng không còn dấu vết, giấc mơ về một đài tưởng niệm cho những nhà báo chiến trường cho đến giờ vẫn chưa thành hiện thực, nhưng có lẽ ở đôi bờ này không chỉ là chuyện tưởng nhớ những phóng viên chiến tranh hy sinh.

Trong một lần trò chuyện với nhà điêu khắc Phạm Văn Hạng, tác giả của nhiều tượng đài, công trình nổi tiếng, ông nói rằng ở đôi bờ Bến Hải, dọc theo hai phía của cây cầu hãy biến thành một vườn hoa, chỉ trồng hoa thật nhiều, một thảm hoa rực rỡ, và những bông hoa ấy sẽ là sự tưởng niệm và nhắc nhở hay nhất về những năm tháng hôm qua.

Cũng chung ý nghĩ về một "vùng ký ức của đất nước", nhà văn Ngô Thảo, một người con của Vĩnh Linh đã từng có một đề xuất gửi về tỉnh nhà Quảng Trị rằng nơi đây cần được mang một vẻ đẹp riêng, vẻ đẹp của thống nhất hàn gắn, với đôi bờ sông hoa, với tình cảm của mấy chục tỉnh thành trên cả nước dành cho, không nhất thiết phải tượng đài hoành tráng. Lịch sử Việt Nam đã đi qua dòng sông "cách nhau chỉ một mái chèo" này đằng đẵng hai mươi năm, có tỉnh thành nào trên cả nước lại không có những con em đi qua dòng sông này? Vậy thì hãy để đôi bờ Hiền Lương được quy hoạch theo hướng "của cả nước", mỗi tỉnh thành sẽ đóng góp cho bài ca dòng sông thống nhất này những công trình riêng của mình nhưng lại hài hòa trong một chỉnh thể mang tính thống nhất và biểu tượng. Không biết ý tưởng của ông và các nhà lãnh đạo tỉnh, nhất là khối văn hóa đã được đồng cảm đến đâu, nhưng trên cơ sở ấy, câu chuyện của Hiền Lương hôm nay sẽ là một câu chuyện đẹp, và sự góp mặt của các vùng miền trên đôi bờ sông tuyến năm nào sẽ ngân cao hơn những nốt nhạc của bài ca khát vọng thống nhất.

Cùng với độ lùi thời gian, ta sẽ càng hiểu hơn cái giá vô bờ của ngày thống nhất, để trân quý hơn những khoảnh khắc hòa bình.

Nguồn: Bài đăng trên Nhân Dân ngày 12/4/2015
Nội dung: Lê Việt Thường

Trình bày: Xuân Bách - Hạnh Vũ
Ảnh: TTXVN, Nhân Dân