Thành tựu về giáo dục trong phát triển quyền con người ở Việt Nam

NDO - Nhân Ngày quốc tế nhân quyền (10-12), 64 năm Liên hợp quốc công bố Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền (1948 - 2012), nhìn lại quá trình cách mạng dưới sự lãnh đạo của Ðảng Cộng sản Việt Nam, chúng ta bền bỉ đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước đem lại quyền làm người cho mọi người dân, trong đó có quyền được học tập. Thực tế sự nghiệp giáo dục ở Việt Nam trong hơn nửa thế kỷ qua là một minh chứng cụ thể bác bỏ sự xuyên tạc của các thế lực thù địch, cũng như ý kiến thiếu thiện chí của một số chính phủ, tổ chức quốc tế đối với vấn đề nhân quyền ở Việt Nam.

Ðất nước bị nô lệ thì nhân dân không thể có tự do, quyền con người bị chà đạp. Vì thế, độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để bảo đảm quyền con người. Nói cách khác, không có độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, thì không thể nói đến quyền con người. Ðó cũng là mục tiêu cao cả để Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước. Mục đích hướng tới, tâm niệm của Người là độc lập tự do của Tổ quốc, hạnh phúc ấm no của nhân dân, giải phóng nhân dân khỏi sự nô dịch và sự bất công về kinh tế, văn hóa. Từ rất sớm, trong tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp, Người viết: "... "Làm cho dân ngu để dễ trị" đó là chính sách mà các nhà cầm quyền ở thuộc địa của chúng ta ưa dùng nhất". Người đã dành trọn cuộc đời cùng Ðảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ, giành lại cho nhân dân Việt Nam quyền con người, trong đó có quyền được học tập.

Năm 1945, Cách mạng Tháng Tám thành công nhưng những di sản lạc hậu về dân trí, văn hóa do chế độ cũ để lại rất nặng nề. Ở thời điểm đó, tỷ lệ người dân Việt Nam mù chữ lên tới hơn 95%. Cho nên, ngay từ những ngày đầu của chính thể Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, việc phát triển nền giáo dục, tạo cơ hội cho mọi người dân hưởng quyền được học tập đã được xác định là nhiệm vụ quan trọng vừa cấp bách, vừa lâu dài của chính quyền mới. Một ngày sau khi tuyên bố với thế giới Việt Nam đã giành lại độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: "Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu", Người coi "giặc dốt" cũng nguy hiểm như "giặc ngoại xâm", cấp bách như đối phó với "giặc đói"; Người khẳng định chống nạn mù chữ là nhiệm vụ sau chống "giặc đói", là một trong sáu nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ.

Năm 1946, Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa xác định: "Nền sơ học cưỡng bách và không học phí. Ở các trường sơ học địa phương, quốc dân thiểu số có quyền học bằng tiếng của mình. Học trò nghèo được Chính phủ giúp". Nếu nói về thời gian, điều này đã ra đời trước ba năm so với khoản 1 Ðiều 26 của Tuyên ngôn nhân quyền quốc tế (1948): "Mọi người đều có quyền được giáo dục. Giáo dục phải được miễn phí, ít nhất là ở bậc tiểu học và căn bản. Giáo dục tiểu học phải bắt buộc".

Cho đến nay, các quan điểm cơ bản về phát triển giáo dục được xác định từ ngày thành lập nhà nước dân chủ, nhân dân vẫn thường xuyên được hoàn thiện để phù hợp với tiến trình phát triển, và luôn được cụ thể hóa trong sự nghiệp giáo dục toàn dân. Từ Ðại hội Ðảng toàn quốc lần thứ VI (1986), sự nghiệp giáo dục càng được nhấn mạnh hơn, được coi là quốc sách hàng đầu trong khi đề cập vấn đề phát triển con người. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung phát triển năm 2011) được Ðại hội Ðảng lần thứ XI thông qua đã khẳng định: "Phát triển giáo dục và đào tạo cùng với phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, đầu tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư cho phát triển". Gần đây nhất, Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Ðảng (khóa XI) một lần nữa lại nhấn mạnh: "Giáo dục và đào tạo là sự nghiệp của toàn Ðảng, của Nhà nước, của toàn dân và là quốc sách hàng đầu, nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài. Ðầu tư cho giáo dục và đào tạo phải được ưu tiên và đi trước. Mục tiêu cốt lõi của giáo dục và đào tạo là hình thành và phát triển phẩm chất, năng lực con người Việt Nam".

Cùng với quan điểm phát triển giáo dục là việc khẳng định quyền bình đẳng về cơ hội được hưởng nền giáo dục của mọi người dân Việt Nam không phân biệt giới tính, sắc tộc, tôn giáo. Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Ðảng lần thứ 2 (khóa VII) về định hướng chiến lược phát triển giáo dục trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa nêu: "Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục và đào tạo. Tạo điều kiện để ai cũng được học hành. Người nghèo được Nhà nước và cộng đồng giúp đỡ để học tập. Bảo đảm điều kiện cho những người học giỏi phát triển tài năng".

Trải qua mấy chục năm kháng chiến giành độc lập, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong hoàn cảnh hết sức khó khăn, nhưng Ðảng và Nhà nước ta vẫn nhất quán với chiến lược phát triển giáo dục, dành một phần ngân sách rất lớn cho giáo dục. Báo cáo Chính trị Ðại hội Ðảng toàn quốc lần thứ XI nêu rõ: "Chi ngân sách nhà nước cho giáo dục, đào tạo đạt trên 20% tổng chi ngân sách; việc huy động các nguồn lực xã hội cho giáo dục, đào tạo, phát triển giáo dục, đào tạo ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số được quan tâm... Ðến năm 2010, tất cả các tỉnh, thành phố đã đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở". Trong 10 năm (2001 - 2011), chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam đã tăng 11,8%.  Cho đến nay, về cơ bản, Việt Nam đã xây dựng được một hệ thống giáo dục các cấp học ở mọi vùng, miền, với nhiều loại hình trường lớp, với số lượng học sinh đến trường ở các cấp ngày một tăng. Bên cạnh đó, Nhà nước còn thực hiện nhiều chính sách công bằng trong tiếp cận giáo dục, đặc biệt là đối với trẻ dân tộc thiểu số, trẻ ở vùng sâu, vùng xa.

Ðể cụ thể hóa chính sách ưu tiên đầu tư nhiều mặt về giáo dục cho các địa bàn có nhiều khó khăn, chúng ta đã triển khai các kế hoạch xây dựng trường học kiên cố và đạt chuẩn chất lượng, kết hợp với nỗ lực xóa đói, giảm nghèo, qua đó tạo thêm cơ hội cho trẻ tiếp cận nhiều hơn với các dịch vụ giáo dục. Từ năm 2000, Việt Nam đã đạt chuẩn quốc gia về xóa mù chữ và phổ cập tiểu học. Từ năm học 2002 - 2003, tỷ lệ biết chữ của người lớn trong độ tuổi 15 - 24 đã đạt gần 95%, số năm đi học trung bình của người dân đạt mức 7,3 năm. Năm 2010 đã có 97,3% người dân biết chữ. Việc dạy chữ dân tộc đã được đẩy mạnh ở các địa phương, nhờ đó tỷ lệ người dân tộc thiểu số mù chữ giảm mạnh. Ðáng chú ý là đã có gần 120.000 trẻ khuyết tật học hòa nhập trong các trường phổ thông và mầm non. Trong năm học 2003 - 2004, hầu hết các địa phương trong cả nước đã huy động được gần 90% trẻ khuyết tật độ tuổi lớp 1 đi học để hòa nhập theo chương trình và sách giáo khoa mới... Những con số đó khẳng định Việt Nam đã tạo sự công bằng trong tiếp cận quyền lợi về giáo dục cho tất cả trẻ em gái, trai của các dân tộc, trên khắp mọi vùng, miền và trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Vì thế, Việt Nam được nhiều quốc gia, tổ chức quốc tế đánh giá là nước có các thành tựu đáng kể về giáo dục, đào tạo so với nhiều nước có thu nhập tính theo đầu người tương đương, và hoàn toàn có khả năng hoàn thành Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ (MDGs) về phổ cập giáo dục tiểu học trước năm 2015.

Từ vai trò to lớn của giáo dục đối với sự phát triển của xã hội và con người, cần khẳng định rằng, các chỉ số về giáo dục là một thước đo quan trọng đối với mức độ thực thi quyền con người. Bởi không ai có thể bác bỏ một thực tế là: cơ hội và khả năng tham gia của mỗi cá nhân trong việc tiếp cận để thụ hưởng các thành quả của giáo dục, chia sẻ những điều kiện để nâng cao trình độ cũng như khả năng phát triển tri thức, trí tuệ của mỗi người cũng là phương diện biểu hiện cụ thể nhất của việc thực thi nhân quyền ở một quốc gia. Hiện tại, dù nền giáo dục ở Việt Nam còn tồn tại một số hạn chế, hệ thống giáo dục chưa theo kịp yêu cầu của giai đoạn phát triển mới, nhưng qua chiều dài lịch sử gần 70 năm qua và từ quan điểm phát triển một trong các quyền cơ bản của con người, các tiến bộ trên lĩnh vực này rõ ràng là không thể phủ nhận.