Đẩy mạnh nền tảng công nghệ để phục hồi và phát triển du lịch

Sau các hậu quả nặng nề từ đại dịch Covid-19, sự cần thiết  nhanh chóng phục hồi ngành du lịch đang là một trong những vấn đề riết ráo được đặt ra trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Trong các giải pháp đã được triển khai nhằm hồi sinh ngành “công nghiệp không khói”, việc đẩy mạnh các nền tảng công nghệ để phát triển du lịch thông minh được đánh giá là một giải pháp có hiệu quả. 

Tháng 11/2017, TP Đà Nẵng ra mắt ứng dụng Chatbot Danang Fanstaticity với rất nhiều tiện ích.
Tháng 11/2017, TP Đà Nẵng ra mắt ứng dụng Chatbot Danang Fanstaticity với rất nhiều tiện ích.

Du lịch là một trong các ngành kinh tế mang lại nguồn thu lớn vào ngân sách nhiều quốc gia. Tuy nhiên hơn hai năm qua, đại dịch Covid-19 đã khiến doanh thu của ngành “công nghiệp không khói” sụt giảm đáng kể. Theo dữ liệu của Tổ chức Du lịch thế giới (World Tourism Organization-UNWTO), lượng khách quốc tế dự kiến trong năm 2021 vẫn ở mức giảm tương tự như năm 2020, tức là thấp hơn 70-75% so với năm 2019. Vì thế, doanh thu từ du lịch quốc tế trong năm 2021 có thể đạt 700-800 tỷ USD và chỉ gần bằng một nửa so với mức 1.700 tỷ USD của năm 2019. Dù đã có một số dấu hiệu tăng trưởng đáng khích lệ song sự phục hồi du lịch thế giới vẫn còn khá mong manh. Theo cập nhật mới nhất trên Phong vũ biểu Du lịch năm 2021, trong quý III năm 2021, lượng khách du lịch quốc tế tăng 58% so cùng kỳ năm 2020. Tuy nhiên, vẫn thấp hơn 64% so với năm 2019. Trong bối cảnh đầy thách thức hiện nay, ngành du lịch toàn thế giới, trong đó có Việt Nam, đang nỗ lực tìm cách phục hồi, bảo đảm yếu tố an toàn, hiệu quả.

Khi các thành tựu khoa học-công nghệ đang được ứng dụng mạnh mẽ vào mọi lĩnh vực của đời sống, phát triển du lịch thông minh (Smart-Tourism) đã trở thành một xu hướng tại nhiều quốc gia trên thế giới. Công nghệ cũng là yếu tố hàng đầu, giúp thúc đẩy nhanh sự thích nghi với trạng thái “bình thường mới”. Tất nhiên, công nghệ không phải là tất cả nhưng có thể coi đó là yếu tố cơ bản, nền tảng để phát triển du lịch thông minh. Cũng sử dụng thành tựu công nghệ thông tin, nhưng du lịch trực tuyến (E-Tourism) còn hạn chế ở tính hợp tác giữa các thành phần trong ngành du lịch, chưa tạo được trải nghiệm xuyên suốt cho du khách. Trong khi đó, thông qua các nền tảng công nghệ số, Smart-Tourism tạo ra một hệ thống cơ sở dữ liệu lớn, giúp tăng tính kết nối, từ đó, mang lại trải nghiệm xuyên suốt (trước, trong và sau chuyến đi) cho du khách. Trên thế giới, du lịch thông minh đã được nhiều quốc gia triển khai với hình thức đa dạng và đang trở thành thành phần chính trong tăng trưởng kinh tế của những quốc gia này. Tại Việt Nam, thuật ngữ “du lịch thông minh” lần đầu được nhắc đến trong một văn bản pháp quy là Chỉ thị số 16/2017/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường năng lực tiếp cận cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, với nội dung: “Ưu tiên phát triển công nghiệp công nghệ số, nông nghiệp thông minh, du lịch thông minh, đô thị thông minh”. Theo đó, nhiều địa phương đã xây dựng, đưa ra các giải pháp ứng dụng công nghệ, sử dụng nhiều nền tảng xã hội cũng như các phần mềm, tiện ích thông minh để hỗ trợ phát triển du lịch, như: Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Thừa Thiên Huế, Quảng Ninh... Là thành phố du lịch lớn của cả nước, từ năm 2018, Đà Nẵng đưa vào sử dụng ứng dụng Chatbot “Da Nang Fantasticity” giúp du khách dễ dàng tra cứu mọi thông tin tiện ích khi du lịch tại đây. Chatbot là một công cụ ứng dụng trí tuệ nhân tạo để tương tác với con người qua hình thức tin nhắn (Textual) hoặc âm thanh (Audiotory). Đây là công nghệ được sử dụng đầu tiên tại Việt Nam và Đông Nam Á (cùng với Singapore). Ngoài Chatbot, Đà Nẵng cũng đã xây dựng các hệ thống phần mềm, tiện tích hỗ trợ tối ưu cho du khách, cụ thể như: “inDaNang”, “Da Nang Tourism”, “Go! Đà Nẵng”, “Da Nang Bus”; phát triển hoạt động truyền thông trên trang mạng xã hội Facebook, Instagram, YouTube, Twitter, Tiktok… và có trang dành riêng cho từng thị trường như tại các trang mạng Weibo (Trung Quốc), Naver (Hàn Quốc). Ngoài ra, Đà Nẵng còn xây dựng hệ thống thuyết minh audio tự động tại các điểm du lịch do Nhà nước quản lý và hệ thống ứng dụng QR Code trong thông tin, giới thiệu các điểm tham quan, dịch vụ du lịch. Để thúc đẩy du lịch thông minh, Hà Nội cũng đã đưa vào sử dụng hai phần mềm tiện ích thông minh, hỗ trợ du khách gồm: Hệ thống thuyết minh tự động (Audio guide) tại Văn Miếu-Quốc Tử Giám, phần mềm hướng dẫn tham quan Hoàng thành Thăng Long và một số tiện ích số về bản đồ, tìm đường, trạm xe buýt... Ngoài ứng dụng thuyết minh tự động, Trung tâm Hoạt động Văn hóa Khoa học Văn Miếu-Quốc Tử Giám cũng đã ra mắt một loạt sản phẩm thử nghiệm từ ứng dụng công nghệ số, điểm nhấn là màn trình chiếu ánh sáng 3D kết hợp âm nhạc diễn ra vào buổi tối, nhằm hình thành sản phẩm trải nghiệm về đêm, tăng sức hấp dẫn cho du khách. Cùng với Hà Nội, TP Hồ Chí Minh đã đưa vào sử dụng một số trạm thông tin du lịch thông minh, phần mềm du lịch thông minh như: “Vibrant Ho Chi Minh city” cũng như một số phần mềm tiện ích khác gồm: “Sai Gon Bus”, “Ho Chi Minh City Travel Guide”, “Ho Chi Minh City Guide and Map”... Tương tự, tại Huế, việc ứng dụng công nghệ vào phát triển du lịch thông minh cũng mang lại hiệu quả khả quan. Chỉ sau một tháng đẩy mạnh quảng bá trên các nền tảng mạng xã hội, đã tiếp cận được hơn một triệu người dùng. Di tích Lăng Tự Đức nằm trong 30 di tích được Google lựa chọn để số hóa 3D, giúp tăng hiệu quả quảng bá.

Cùng với nỗ lực của nhiều địa phương, Tổng cục Du lịch (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) cũng thực hiện ứng dụng các nền tảng công nghệ với mục tiêu nâng cao trải nghiệm tối ưu cho du khách tới Việt Nam, hướng đến phát triển du lịch thông minh. Cụ thể, các giải pháp đã triển khai gồm: nâng cấp toàn diện ứng dụng Du lịch Việt Nam an toàn; Hệ thống khai báo an toàn Covid-19; Hộ chiếu vắc-xin của Trung tâm Thông tin du lịch thuộc Tổng cục Du lịch. Ứng dụng Du lịch Việt Nam an toàn sau khi được nâng cấp, đã tích hợp đầy đủ các tính năng như: bản đồ số du lịch an toàn, khai báo y tế, chứng nhận tiêm chủng và cập nhật thông tin về tình hình dịch bệnh ở các địa phương… Đây đều là các tính năng thiết thực với mỗi du khách khi du lịch trong trạng thái bình thường mới hiện nay. Ngoài ra, việc truyền thông về du lịch trên các nền tảng số cũng được đẩy mạnh nhằm kết nối đa chiều hơn. Hơn nữa, qua những nền tảng trực tuyến này, hình ảnh nổi bật về du lịch Việt Nam với các danh lam thắng cảnh, các di sản văn hóa được giới thiệu rộng rãi, sống động với du khách trong nước cũng như quốc tế. Một số nền tảng trực tuyến mà du lịch Việt Nam triển khai đã xuất hiện như: Google Arts & Culture (một nền tảng mà qua đó công chúng có thể xem các hình ảnh và video có độ phân giải cao về các tác phẩm nghệ thuật và hiện vật văn hóa của nhiều quốc gia trên thế giới), YouTube với chương trình truyền thông “Việt Nam: Đi để yêu!”, các nền tảng Facebook, Pinterest, Tiktok với chiến dịch “Live fully in Vietnam”, gồm các thông tin về du lịch Việt Nam được mô hình hóa dưới dạng infographic (đồ họa thông tin) sinh động, bắt mắt. Một điểm nhấn quan trọng nữa, cho thấy khả năng chuyển đổi nhằm tiếp cận và thích ứng với du lịch thông minh của du lịch Việt Nam là sự xuất hiện của sàn giao dịch du lịch trực tuyến (Tripi) cho phép giao dịch các tour trọn gói, khách sạn, vé máy bay, mang lại những trải nghiệm tích cực cho người dùng.

Tuy nhiên, vẫn còn không ít vấn đề đang đặt ra đối với việc ứng dụng công nghệ phát triển du lịch thông minh tại Việt Nam. Theo TS Lê Quang Đăng (Viện Nghiên cứu phát triển du lịch), mặc dù hiện nay đã có rất nhiều văn bản pháp quy về đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin với phát triển kinh tế-xã hội nói chung, phát triển du lịch nói riêng, nhưng lại thiếu văn bản cụ thể quy định hay hướng dẫn triển khai phát triển du lịch thông minh; thiếu mô hình du lịch thông minh bảo đảm tính hiệu quả. Từ đó, dẫn đến tình trạng khi thực hiện phát triển du lịch thông minh, các địa phương còn lúng túng và bộc lộ không ít bất cập. Cũng vì thiếu cơ sở khoa học, thiếu căn cứ pháp lý, nên đầu tư phát triển thiếu đồng bộ và không có trọng điểm khiến hiệu quả chưa cao. Hơn nữa, không nhiều địa phương có nền tảng công nghệ bảo đảm đủ cho việc phát triển du lịch thông minh. Thực tế, rất nhiều địa phương có du lịch phát triển nhưng hạ tầng công nghệ chưa được đầu tư tương xứng, nên chỉ số xếp hạng về mức độ sẵn sàng cho ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin lại rất thấp như: Ninh Bình, Quảng Bình, Khánh Hòa, Lâm Đồng, Lào Cai… Một khó khăn khác là hiện nay các doanh nghiệp du lịch tại Việt Nam phần lớn là doanh nghiệp nhỏ và vừa, vốn ít, khả năng đầu tư cho nền tảng công nghệ không lớn, dẫn đến sự tiếp cận của các doanh nghiệp với du lịch thông minh cũng còn nhiều hạn chế.

Phát triển du lịch thông minh không chỉ là xu hướng mà còn góp phần tạo ra diện mạo mới cho ngành du lịch. Theo ông Lê Tuấn Anh, Giám đốc Trung tâm Thông tin du lịch (Tổng cục Du lịch), công nghệ mới sẽ tăng tính hấp dẫn cho sản phẩm du lịch, nâng cao chất lượng trải nghiệm, đồng thời, công tác quản lý nhà nước về du lịch sẽ hiệu quả hơn. Đặc biệt, ứng dụng công nghệ trong phát triển du lịch thông minh còn giúp kết nối hiệu quả các bên liên quan, đo lường và quản lý điểm đến (tính toán sức chứa của điểm đến, cảnh báo mức độ ô nhiễm, kiểm soát môi trường...), từ đó thúc đẩy phát triển du lịch theo hướng bền vững, hài hòa. Thực hiện được điều này không hề đơn giản, nhất là khi tại Việt Nam, trình độ và nền tảng khoa học-công nghệ vẫn còn những hạn chế. Vì thế, cần có sự phối hợp đồng bộ, chặt chẽ giữa các bộ, ngành có liên quan, sự tham gia có trách nhiệm của các địa phương, doanh nghiệp lữ hành. Trong đó, nhận thức đúng và đầy đủ về du lịch thông minh để xây dựng được một mô hình chung, bảo đảm tính hiệu quả và áp dụng được tại nhiều địa phương trên cả nước là hết sức cần thiết. Ngoài ra, tiếp tục hoàn thiện thể chế chính sách cho phát triển du lịch thông minh; tạo nền tảng công nghệ cho du lịch thông minh bằng cách đầu tư phát triển hạ tầng công nghệ, đầu tư sản xuất các phần mềm, ứng dụng, tiện ích thông minh cho ngành du lịch... Đặc biệt, cần phát triển nguồn nhân lực du lịch có trình độ công nghệ để đón đầu các xu hướng, đồng thời dễ dàng nắm bắt được cách thức vận hành, và quản lý tốt các nền tảng công nghệ ■