Phát triển bền vững, tiến tới bảo hiểm y tế toàn dân

Nghị quyết số 68/2013/QH13 của Quốc hội đã giao chỉ tiêu cho Chính phủ “bảo đảm đến năm 2015 đạt ít nhất 75% dân số tham gia BHYT và đến năm 2020 đạt ít nhất 80% dân số tham gia BHYT”. Tuy nhiên, theo báo cáo của BHXH Việt Nam, đến hết năm 2019, cả nước đã có 85,39 triệu người tham gia BHYT, đạt tỷ lệ bao phủ BHYT là 90% dân số. Phó Chủ nhiệm Ủy ban Về các vấn đề xã hội của Quốc hội BÙI SỸ LỢI (trong ảnh) đã có những đánh giá về kết quả thực hiện Nghị quyết 68 của Quốc hội, cũng như mục tiêu hướng tới BHYT toàn dân.

Phát triển bền vững, tiến tới bảo hiểm y tế toàn dân

Phóng viên: Với những kết quả đạt được về diện bao phủ, công tác tổ chức thực hiện BHYT đã có nền tảng tương đối vững chắc, qua thực tế giám sát ở các địa phương, theo đồng chí tỷ lệ bao phủ BHYT đạt 90% đã đi vào thực chất?

Phó Chủ nhiệm Bùi Sỹ Lợi: Có thể nói Nghị quyết 68 của Quốc hội đáp ứng được yêu cầu quan trọng trong quá trình thực hiện chính sách an sinh xã hội của chúng ta, trong đó BHYT được coi là một trụ cột. Với tỷ lệ bao phủ toàn dân tới 90% tham gia BHYT, đó là một thành công lớn, là mục tiêu mà chúng ta đã phấn đấu để đạt được, hướng tới mục tiêu chăm sóc sức khỏe nhân dân, đáp ứng được yêu cầu, nguyện vọng của nhân dân.

Qua công tác giám sát, chúng tôi thấy số liệu thống kê đang phản ánh đúng tình hình thực tế triển khai BHYT trên cả nước. Nếu như cách đây khoảng 5 đến 10 năm, chúng ta sẽ thấy tỷ lệ tham gia BHYT là rất khác nhau giữa các địa phương, ngay cả những tỉnh đồng bằng, gần sát Hà Nội, như Nam Định vào năm 2012 mới đạt được khoảng hơn 40%, chưa được 50%... Nhưng đến nay, rất mừng là tỷ lệ người dân tham gia BHYT bao phủ đồng đều trên toàn quốc.

Phóng viên: Nhưng trên thực tế, vẫn còn không ít khó khăn trong việc tiến tới BHYT toàn dân, theo đồng chí, có những vấn đề gì đáng chú ý khi thực hiện chính sách BHYT ở cơ sở?

Phó Chủ nhiệm Bùi Sỹ Lợi: Qua thực tế giám sát việc triển khai chính sách BHYT tại các địa phương, tôi cho rằng, vẫn còn nhiều vấn đề chúng ta cần phải giải quyết. Thứ nhất, số người tham gia tăng, độ bao phủ lên tới 90%, nhưng vấn đề quan trọng là trong 90% dân số có thẻ BHYT, số lượng người dân được Nhà nước hỗ trợ từ ngân sách chiếm tỷ trọng rất cao, chiếm tới hơn 60%. Điều này có nghĩa, ngân sách đang chi cho BHYT rất lớn, và Quỹ BHYT của chúng ta đang phụ thuộc rất nhiều vào ngân sách.

Thứ hai, việc phát triển chính sách BHYT và công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân cũng chưa đồng đều giữa các vùng, miền. Một số vùng, miền điều kiện kinh tế xã hội khó khăn như miền núi, vùng sâu, vùng xa thì việc chăm sóc sức khỏe vẫn chưa đạt yêu cầu. Người dân được tham gia BHYT, nhưng chất lượng dịch vụ y tế cho vùng sâu, vùng xa vẫn chưa cao, dẫn đến có sự chênh lệch về hưởng lợi của dịch vụ BHYT. Đã có thời điểm, chúng ta phải “báo động” tình trạng người nghèo đang tham gia BHYT để tạo cơ hội cho người có điều kiện và người ở vùng đồng bằng được hưởng quyền lợi cao hơn.

Và cuối cùng, mặc dù tỷ lệ bao phủ BHYT đã đạt khoảng 90%, nhưng vẫn còn khoảng 10% dân số tham gia BHYT. Con số 10% này mới là điều đáng lưu ý. Hộ gia đình, người có thu nhập cao… là những người hoàn toàn có khả năng tham gia BHYT để làm cho Quỹ BHYT tăng lên, nhưng họ lại chưa tham gia, mà chủ yếu tham gia các gói bảo vệ sức khỏe của bảo hiểm thương mại hoặc có một bộ phận người dân có đời sống cao lại khám, chữa bệnh ở nước ngoài... Điều này thể hiện quan điểm chung là bao phủ toàn dân, nhưng bộ phận cần tham gia để cho nguồn quỹ tăng lên, bảo đảm công bằng xã hội lại hạn chế, đòi hỏi phải có giải pháp để khắc phục tình trạng này.

Phóng viên: Theo đồng chí, chúng ta phải làm thế nào để phát triển bền vững, tiến tới mục tiêu BHYT toàn dân?

Phó Chủ nhiệm Bùi Sỹ Lợi: Tôi cho rằng, phát triển BHYT bền vững phải thỏa mãn được hai yêu cầu rất cơ bản. Một là, phải bao phủ đến mọi người, hay còn gọi là BHYT toàn dân, để không ai phải đi khám, chữa bệnh mà không có BHYT. Thứ hai là, phải bảo đảm bền vững về tài chính. Đây là vấn đề rất quan trọng, có thể thấy độ bao phủ thì lớn, nhưng nguy cơ “vỡ quỹ” lại cao, bởi thực trạng hiện nay đang là “đóng thì ít, hưởng thì nhiều”, cùng chia sẻ lại thấp, thậm chí là không có. Nếu không giải quyết được vấn đề này, BHYT không thể bền vững được.

Vì thế, với tỷ lệ bao phủ 10% còn lại, chúng ta cần tập trung vận động, tuyên truyền, làm sao để đối tượng này có thể tham gia vào hệ thống BHYT của cả nước, điều đó sẽ giúp nguồn quỹ tăng lên. Thứ hai là, mức đóng hiện nay của chúng ta đang là 4,5% mức lương cơ sở; nhưng Luật BHYT sửa đổi, bổ sung năm 2014 cho phép là 6%, cho nên chúng ta hoàn toàn có dư địa. Nhưng nếu tăng nhanh, cũng sẽ gây áp lực cho người dân, cho doanh nghiệp, vì vậy cần có lộ trình.

Phóng viên: Vậy theo đồng chí, làm thế nào để có sự cân bằng giữa việc đạt mục tiêu về độ bao phủ BHYT, vừa bảo đảm quyền lợi người tham gia đồng thời bảo đảm sự an toàn của nguồn quỹ?

Phó Chủ nhiệm Bùi Sỹ Lợi: Thời điểm trước năm 2015, hiện tượng trục lợi, lạm dụng quỹ BHYT diễn ra phổ biến, nguồn Quỹ BHYT sử dụng chưa hiệu quả dẫn tới chất lượng phục vụ khám, chữa bệnh BHYT chưa cao. Trong những năm vừa qua, quy mô, tốc độ bao phủ BHYT tăng nhanh, đó là vì chất lượng khám, chữa bệnh đang từng bước được nâng cao. Tôi đánh giá rất cao sự chỉ đạo quyết liệt của Bộ Y tế, chúng ta thay đổi được thủ tục hành chính, tinh thần, thái độ của cán bộ ngành y tế, của y, bác sĩ, người lao động trong ngành. Đặc biệt là BHXH Việt Nam cùng với ngành y tế đã thực hiện tốt việc ứng dụng công nghệ thông tin nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác giám định BHYT để kiểm soát tình trạng trục lợi, lạm dụng BHYT tại các cơ sở y tế.

Bên cạnh đó, tôi cho rằng, trong chừng mực nào đó, cần đánh giá cao sự phát triển của hệ thống y tế tư nhân, dù còn chiếm tỷ trọng nhỏ, nhưng đã dần trở thành đối trọng để các cơ sở y tế công lập cũng phải quyết tâm đổi mới, cải cách thủ tục hành chính và thực hiện công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân tốt hơn. Chúng ta phải đánh giá cao sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, chỉ tiêu bao phủ BHYT là HĐND, UBND các địa phương đều giao chỉ tiêu để tổ chức triển khai thực hiện từ xã, huyện, quận, thị xã, thành phố đến Trung ương. Các khâu kiểm tra, giám sát, đánh giá làm rất tốt, tôi cho rằng, đây là yếu tố rất quan trọng để phát triển BHYT bền vững.

Và cuối cùng, sự phát triển bền vững quan trọng nhất của BHYT là phải bảo đảm sức khỏe, sự hài lòng tốt nhất trong nhân dân, đây cũng là yếu tố hấp dẫn để thu hút những đối tượng chưa tham gia BHYT sẽ tham gia vào hệ thống. Muốn vậy, chúng ta phải thực hiện cơ chế tài chính y tế rất công minh và hiệu quả, giúp cho hệ thống BHYT bền vững hơn.

Phóng viên: Cảm ơn đồng chí!