Hơn 50% bệnh nhi rối loạn tăng động suy giảm chức năng xã hội ở tuổi trưởng thành

NDO -

Hơn 50% bệnh nhân trẻ em được chẩn đoán ADHD tiếp tục có những biểu hiện triệu chứng trong suốt thời kỳ thanh thiếu niên và hơn một nửa có những suy giảm chức năng xã hội ở tuổi trưởng thành.

(Ảnh minh họa: Bệnh viện Nhi Trung ương)
(Ảnh minh họa: Bệnh viện Nhi Trung ương)

Rối loạn tăng động giảm chú ý (ADHD) là một rối loạn bao gồm suy giảm sự tập trung chú ý, hoạt động thái quá và hấp tấp, bốc đồng.

Tại Việt Nam, tỷ lệ trẻ mắc tăng động giảm chú ý dao động từ 3,2-9,3% và trẻ tăng động giảm chú ý có kèm những rối loạn đồng diễn là 67%. Tăng động giảm chú ý thường gặp ở trẻ em trai hơn trẻ em gái, và trẻ mắc chứng rối loạn tăng động giảm chú ý bắt đầu phát triển triệu chứng trước khi lên 7 tuổi.

Theo BSCKII Nguyễn Thị Kiều Tiên, Trưởng khoa Khám Tâm lý-Tâm thần trẻ em, Bệnh viện Tâm thần TP Hồ Chí Minh,  rối loạn tăng động giảm chú ý là một trong những rối loạn thần kinh phổ biến, có biểu hiện đôi khi khác nhau giữa các giai đoạn phát triển của cá thể, nhưng lại có khi khá tương đồng với một số rối loạn phát triển thần kinh, hay rối loạn tâm thần khác.

Trong đa số các trường hợp thì tăng động giảm chú ý không xuất hiện đơn lẻ, cho nên việc tìm kiếm các rối loạn đi kèm cần thực hiện thường xuyên và cần chú ý rằng hầu hết các cá nhân bị rối loạn tăng động giảm chú ý có rối loạn đi kèm thường có biểu hiện lâm sàng khá phức tạp.

Vì vậy, khi chẩn đoán nếu chỉ quan tâm đến rối loạn tăng động giảm chú ý mà bỏ quên các rối loạn đồng mắc thì sẽ khó để xác định được đúng bệnh.

Không chỉ gây phức tạp cho việc chẩn đoán, việc hiện diện các rối loạn đi kèm tăng động giảm chú ý còn làm tăng nặng các vấn đề cùng xảy ra, gây khó khăn cho việc lên kế hoạch, đánh giá hiệu quả điều trị, đồng thời tiên lượng khó khăn do các yếu tố gây nhiễu.

Bác sĩ Tiên nhấn mạnh, trong quá trình thăm khám và chẩn đoán, các bác sĩ cần lưu ý rối loạn tăng động giảm chú ý và rối loạn lo âu; rối loạn tăng động giảm chú ý và rối loạn lưỡng cực; rối loạn tăng động giảm chú ý và trầm cảm. Ngoài ra, biểu hiện rối loạn tăng động giảm chú ý tại từng độ tuổi khác nhau cũng có những đặc điểm khác nhau.

Điều trị bằng thuốc là giảm các triệu chứng cốt lõi của rối loạn tăng động giảm chú ý hướng đến cải thiện tình trạng suy giảm chức năng. Các bước tiếp cận khi kê đơn thuốc điều trị rối loạn tăng động giảm chú ý ở trẻ cần thực hiện theo 4 bước: Xác định mục tiêu điều trị, Lựa chọn thuốc, Điều chỉnh và theo dõi, Duy trì và giám sát.

"Việc điều trị thuốc vẫn cần phối hợp với can thiệp hành vi, tâm lý để tăng hiệu quả, đặc biệt là đối với trẻ rối loạn tăng động giảm chú ý kém đáp ứng với điều trị thuốc đơn lẻ, có rối loạn đi kèm, hoặc có những yếu tố gây sang chấn trong gia đình", bác sĩ Tiên cho hay. 

Việc quản lý tối ưu những rối loạn đồng diễn với rối loạn tăng động giảm chú ý cũng là vấn đề quan trọng cần lưu ý đặc biệt.

Theo ThS, BS Nguyễn Mai Hương, Phó Trưởng khoa Tâm thần, Bệnh viện Nhi Trung ương, nhìn chung, 67% trẻ rối loạn tăng động giảm chú ý có ít nhất 1 rối loạn đồng diễn, trong đó có 16% có 2 rối loạn đồng diễn và 18% có từ 3 rối loạn đồng diễn trở lên.

Việc hiểu biết về các rối loạn đồng diễn theo các giai đoạn tuổi của trẻ sẽ hỗ trợ các bác sĩ nhi khoa vượt qua các trở ngại trong quá trình điều trị, tăng cường chăm sóc cho trẻ em và thanh thiếu niên mắc rối loạn tăng động giảm chú ý tốt nhất.

Tuổi đi học: rối loạn tăng động giảm chú ý có thể gồm các rối loạn đồng diễn như khuyết tật trí tuệ, các rối loạn lo âu, rối loạn vận động (tic), rối loạn trầm cảm (MD), rối loạn thách thức chống đối (ODD), rối loạn cư xử (CD)

Tuổi vị thành niên: Khuyết tật trí tuệ, các rối loạn âu lo, rối loạn vận động (tic), rối loạn trầm cảm, rối loạn thách thức chống đối (ODD), rối loạn cư xử (CD), rối loạn lưỡng cực.

Hơn 50% bệnh nhân trẻ em được chẩn đoán rối loạn tăng động giảm chú ý tiếp tục có những biểu hiện triệu chứng trong suốt thời kỳ thanh thiếu niên và hơn một nửa có những suy giảm chức năng xã hội ở tuổi trưởng thành.

Điều trị trẻ mắc ADHD cần sự phối hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và các cán bộ y tế. Trẻ có thể cải thiện khi cha mẹ có các biện pháp quản lý hành vi, thái độ ứng xử tích cực, thực hiện những nguyên tắc dựa trên sự tôn trọng và hỗ trợ trẻ tối đa. Đồng thời trẻ có thể tham gia các khóa trị liệu chuyên sâu hoặc sử dụng thuốc.

Trẻ bị rối loạn tăng động giảm chú ý có nguy cơ cao hơn trong sử dụng chất gây nghiện, hành vi phạm tội… so với trẻ bình thường. Vì vậy, cha mẹ cần đưa trẻ có những dấu hiệu tăng động giảm chú ý đến các chuyên khoa Tâm thần Nhi khám và điều trị sớm để trẻ rối loạn tăng động giảm chú ý được can thiệp và giúp đỡ sớm, cải thiện kịp thời các chức năng cuộc sống như học tập, vui chơi, các mối quan hệ…