Nhận diện vướng mắc trong cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước

Nghị quyết số 12-NQ/TW ngày 3/6/2017 Hội nghị T.Ư 5 khóa XII về tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước (DNNN) đã đưa ra quan điểm, định hướng mạnh mẽ về cổ phần hóa, thoái vốn. Phóng viên (PV) báo Thời Nay đã có cuộc trò chuyện với Cục trưởng Tài chính doanh nghiệp (Bộ Tài chính) Đặng Quyết Tiến về kết quả thực hiện chủ trương, chính sách quan trọng này thời gian qua.

Nhận diện vướng mắc trong cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước

PV: Thưa ông, ông đánh giá như thế nào về công tác cổ phần hóa, thoái vốn DNNN thời gian gần đây?

Cục trưởng Đặng Quyết Tiến: Trong suốt cả một thời kỳ 5 năm đã qua (2016 - 2020), có thể thấy nổi bật nhất là hệ thống các cơ chế, chính sách pháp luật phục vụ quá trình cơ cấu lại DNNN đã được sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện và có nhiều đổi mới nhằm tháo gỡ vướng mắc, khó khăn, đẩy nhanh tiến độ thực hiện, ngăn ngừa thất thoát vốn, tài sản nhà nước, tạo điều kiện thuận lợi cho việc bán cổ phần và thu hút được các nhà đầu tư có tiềm năng. Tuy nhiên, trong giai đoạn này, cơ cấu lại DNNN ở một số DN chưa đạt kết quả như kỳ vọng. 

Chúng ta có thể thấy rõ điều này khi nhìn lại kết quả của toàn giai đoạn 2016 - 2020: đã có 180 doanh nghiệp được cấp có thẩm quyền phê duyệt phương án cổ phần hóa với tổng giá trị DN là 489.690 tỷ đồng, trong đó giá trị vốn nhà nước là 233.792 tỷ đồng. Tuy nhiên, chỉ có 39 cổ phần hóa thuộc danh mục cổ phần hóa theo Công văn số 991/TTg-ĐMDN và Quyết định số 26/2019/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ (đạt 30% kế hoạch).  Năm 2021 ghi nhận thêm bốn DN cổ phần hóa nữa. Đối với tình hình triển khai thoái vốn, lũy kế tổng số thoái vốn từ năm 2016 - 2020 thoái được 27.312 tỷ đồng, thu về 177.397 tỷ đồng. Trong đó, thoái vốn nhà nước tại 106 đơn vị thuộc Quyết định số 1232/QĐ-TTg và Quyết định số 908/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ với giá trị 6.493 tỷ đồng, thu về 13.583 tỷ đồng (đạt 30% về số lượng và 11% về giá trị so kế hoạch được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt). Trong năm 2021 đã thoái vốn tại 18 doanh nghiệp với giá trị 1.665 tỷ đồng, thu về 4.402 tỷ đồng.

PV: Ông đánh giá như thế nào về kết quả, hạn chế, vướng mắc, nguyên nhân của hạn chế, vướng mắc trong quá trình thực thi chủ trương, chính sách cổ phần hóa và thoái vốn nhà nước tại DN vừa qua?

Cục trưởng Đặng Quyết Tiến: Trong thời gian qua, hệ thống các cơ chế chính sách pháp luật về quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước tại doanh nghiệp và cổ phần hóa DNNN đã được ban hành đầy đủ và tiếp tục được rà soát, sửa đổi, bổ sung hoàn thiện. Trong đó đáng lưu ý là sau khi có Luật Quản lý, sử dụng tài sản công và các văn bản hướng dẫn thi hành, quá trình thực hiện cho thấy các quy định tại Nghị định số 167/2017/NĐ-CP cơ bản là phù hợp, giải quyết được nhiều vấn đề thực tiễn đặt ra để bảo đảm quản lý chặt chẽ, sử dụng, khai thác có hiệu quả nhà, đất do các cơ quan, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp quản lý, sử dụng.
 
Về tổ chức thực hiện, chúng ta đã ban hành lộ trình cổ phần hóa, thoái vốn. Danh sách các DN cổ phần hóa, thoái vốn được công bố là một bước tiến lớn để công khai, minh bạch trong công tác sắp xếp, đổi mới DNNN, đồng thời làm căn cứ để xem xét, xử lý trách nhiệm người đứng đầu trong việc triển khai đề án cơ cấu lại DNNN. Với việc thực hiện phương án cơ cấu lại và kế hoạch cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước đã được ban hành, số lượng DNNN đã giảm mạnh so với giai đoạn 2011-2015. Mặc dù số lượng DNNN chỉ còn chiếm khoảng 0,08% tổng số doanh nghiệp đang hoạt động nhưng các DNNN vẫn đang nắm giữ nhiều nguồn lực quan trọng của nền kinh tế và các công ty cổ phần có vốn góp của Nhà nước là các doanh nghiệp hoạt động hiệu quả nhất so với các doanh nghiệp khác. Điều này đã khẳng định sự đúng đắn và chính xác trong công tác cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tại DN.

Về hạn chế, vướng mắc, có thể thấy là tuy đã rất cố gắng nhưng kết quả cổ phần hóa, thoái vốn, cơ cấu lại DNNN chưa đạt được kế hoạch đề ra. Đặc biệt là việc xử lý các dự án thua lỗ, kém hiệu quả còn nhiều vướng mắc, cơ bản chưa được giải quyết, như: xử lý dứt điểm tranh chấp, vướng mắc để quyết toán hợp đồng EPC, quyết toán toàn bộ dự án; khó khăn về tài chính, cơ cấu lại nợ; xây dựng phương án thoái vốn.

Về chỉ đạo điều hành của người đứng đầu các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, các địa phương, tập đoàn, tổng công ty nhà nước, nhiều cơ quan đại diện chủ sở hữu (bộ, ngành, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc T.Ư) chưa quan tâm, quyết liệt trong việc đôn đốc, chỉ đạo các DNNN rà soát, xây dựng đề án cơ cấu lại DN theo đúng chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ.

PV: Theo ông, đâu là nguyên nhân cơ bản?

Cục trưởng Đặng Quyết Tiến: Chúng ta cũng biết có những nguyên nhân khách quan tác động tới tiến trình, như: tình hình trên thế giới và khu vực ảnh hưởng đến thị trường tài chính, chứng khoán trong nước và khu vực. Các DN thực hiện cổ phần hóa, thoái vốn, cơ cấu lại giai đoạn này hầu hết là các DN lớn, có tình hình tài chính phức tạp, sở hữu nhiều đất đai; hoặc là các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công ích, gắn liền với các hoạt động của địa phương, đóng góp vai trò quan trọng trong việc bảo đảm thực hiện các chiến lược, mục tiêu về an sinh xã hội của địa phương. Ngoài ra là diễn biến khó lường của dịch Covid-19 làm cho sản xuất, kinh doanh và các hoạt động khác của xã hội bị đình trệ.

Bên cạnh đó, chúng ta cũng thẳng thắn nhìn nhận các nguyên nhân chủ quan. Trong đó, nổi lên là tư duy, nhận thức về vai trò, vị trí của DNNN chưa thống nhất dẫn tới tình trạng còn lúng túng trong hoàn thiện thể chế và tổ chức thực hiện. Một số vấn đề chưa rõ, còn ý kiến khác nhau nhưng chậm được tổng kết thực tiễn, kết luận để có thể cụ thể hóa trong các văn bản quy phạm pháp luật, thí dụ vấn đề vị trí của DNNN trong thực hiện vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, vấn đề trao quyền tự chủ của DNNN, vấn đề sử dụng DNNN làm công cụ điều tiết kinh tế... Vai trò, nhận thức, trách nhiệm của người đứng đầu doanh nghiệp, đơn vị còn chưa cao, chưa quyết liệt trong việc đổi mới hoạt động của doanh nghiệp, công khai minh bạch, đúng quy định pháp luật, bảo đảm nguyên tắc thị trường, chống lợi ích nhóm trong cổ phần hóa và thoái vốn nhà nước.

Về nội tại DNNN, do nhiều yếu tố cấu thành nên bản thân DNNN chậm đổi mới, chưa theo kịp và thích ứng với yêu cầu và bối cảnh phát triển kinh tế thị trường; công tác lập kế hoạch cổ phần hóa, thoái vốn còn hình thức, thiếu khả thi và chưa sát với thực tế; phần lớn các tập đoàn, tổng công ty, DNNN chưa chủ động triển khai các chính sách pháp luật về đất đai, đến khi phải thực hiện cổ phần hóa thực hiện sắp xếp lại, xử lý nhà, đất, từ đó ảnh hưởng đến tiến độ cổ phần hóa; không những thế, còn có tư tưởng không muốn thoái vốn khỏi những ngành, lĩnh vực phát triển mạnh, có tỷ suất sinh lời cao làm cho tiến độ thoái vốn chậm lại.

DNNN vẫn còn hiện diện trong nhiều ngành, lĩnh vực mà Nhà nước không cần duy trì sở hữu vốn. Sự phối hợp giữa các cơ quan đại diện chủ sở hữu với các UBND tỉnh, thành phố, bộ, ngành liên quan trong việc thực hiện lập, phê duyệt phương án sắp xếp lại, xử lý nhà, đất còn chưa tốt, tiến độ phê duyệt còn rất chậm, đặc biệt là các thành phố lớn như Hà Nội và TP Hồ Chí Minh.

Chúng ta cần nghiêm khắc nhìn nhận, đánh giá lại mặt mạnh, mặt còn yếu của công tác này để đề ra được các giải pháp hữu hiệu hơn cho giai đoạn trước mắt và sau này.

PV: Xin cảm ơn ông!