Ngược thượng nguồn

Bản cũ mình ở đáy sông rồi!

Nậm Cắt (Bắc Kạn) là dòng sông lớn uốn khúc qua núi non, ngưng dòng làm thủy điện, reo bản hòa ca ánh sáng, vui người dân đôi bờ.
0:00 / 0:00
0:00
Nơi nước sông Nậm Cắt hòa vào sông Cầu.
Nơi nước sông Nậm Cắt hòa vào sông Cầu.

Chỉ còn mênh mông nước

Mùa thu, khi cả vạt rừng bắt đầu trút lá vàng, cụ Lý Văn Lượng lại ngồi bậu cửa đưa ánh mắt xa xăm trông ra hồ Nậm Cắt. Cụ nhớ tổ tiên, cha mẹ đã hóa thành nước dưới đáy hồ. Cụ bảo: “Phong tục người Dao không cải mả, người chết chôn đâu thì ở mãi đấy thôi”.

Khi xây dựng nhà máy thủy điện, nhiều làng bản phải di dời khỏi vùng hồ ra vùng tái định cư. Già trẻ, trai gái trong bản cuốc bộ, đạp xe, chở gia súc, đồ đạc lần lượt rời nơi chôn nhau cắt rốn. Vài người già ngoảnh đầu lại nhìn bản làng lần cuối, rồi cắm cúi bước, cất giấu nỗi tiếc nuối trong lòng.

“Người còn sống đi, người chết không đi được. Nhiều năm thì cái gì cũng hóa bụi, cũng tan tành. Rồi ai cũng thành bụi đất hết mà. Nhớ tổ tiên thì nhìn vào nước hồ sẽ thấy”, cụ Lượng nén tiếng thở dài.

Gần 90 tuổi nhưng cụ Lượng vẫn không thể quên cái đêm bản mình làm lễ tiễn biệt tổ tiên cách đây mấy chục năm. Đêm không trăng, không sao nhưng thung lũng sáng rực bởi hàng trăm bó đuốc, chập chờn soi những cây nêu giấy xanh đỏ phất phơ trên những ngôi mộ. Tiếng thầy tào tụng kinh rì rầm, tiếng nức nở của đàn bà con gái xen lẫn tiếng khóc ồ ồ của đàn ông trung niên.

Không thấy tiếng người già khóc, nhưng mấy ai biết họ khóc cách riêng - nước mắt chảy vào trong. Có người ấp ngực mình vào mộ người thân lần cuối để tiễn biệt... Tảng sáng, lễ tan, dân bản lặng lẽ ra về, nước mắt đọng dưới làn khăn tang trắng.

Không đến nỗi kinh thiên động địa như những cuộc “di sơn, đảo hải” của tự nhiên, cuộc “di sơn” nhân tạo vẫn làm lay động lòng dân vùng lòng hồ. Do nhiều nguyên nhân, dự án hồ thủy điện triển khai chậm tiến độ tới sáu năm, làm người dân di cư bất an. Ở lại thì nguy cơ bị cô lập bởi ngập nước, ra khu tái định cư thì nguy cơ sạt lở.

Bà Bàn Thị Hiên cho biết: “Gia đình tôi là một trong số ít hộ đã đến ở khu tái định cư sớm nhất. Bị thu hồi hết đất trồng lúa, rau màu, tôi từng phải canh tác nhờ đất ruộng của người nhà để sinh sống”.

Nhà sàn cũ làm bằng gỗ. Nhà tái định cư cũng sàn nhưng toàn bê-tông cốt thép. Hàng dãy nhà xếp hàng đều chằn chặn, cảm giác chơ vơ trên bãi đất vàng, không bóng cây xanh. Buổi tối đèn điện sáng trưng, vang vang tiếng tivi phát đi bản tin thời sự. Người già hay ôn chuyện cũ. Cụ Lượng so sánh, ở nhà mới thì cao, thì sáng hơn thật nhưng vẫn thấy lành lạnh làm sao.

Cụ Lượng nhớ ánh sáng tù mù của chiếc đèn dầu hỏa cùng hơi ấm của bếp lửa hồng đêm đông, nhớ bậc thang gỗ mòn vẹt in hình dấu chân của mấy thế hệ trong ngôi nhà sàn gỗ, kèo tre, lợp ngói âm dương nâu sẫm, được bọc bởi hàng rào tre đan, cùng vạt dong riềng xanh bát ngát. Ngôi nhà ngày xưa, nơi bé Lượng cất tiếng khóc chào đời, nơi chàng thiếu niên Lượng được làm lễ “cấp sắc” khi 12 tuổi, nơi sum họp đại gia đình ăn Tết, ăn lễ Cơm mới.

Người Dao ở Đôn Phong có nghề làm miến dong truyền thống. Chị Lý Thị Sâm tự hào, miến dong Đôn Phong nổi tiếng nhờ nước sông Nậm Cắt. Nước sông nào chả giống nhau, nhưng không, nước sông Nậm Cắt rất lạnh. Người già ở đây vẫn tin truyền thuyết, nước sông vốn là nước mắt của rồng, được bắt nguồn từ hẻm núi cao ngất nên nước ngọt lịm và lạnh băng, nên gọi là Nậm Cắt (nghĩa là sông lạnh).

Dong riềng được tưới nước sông, xanh tốt ngút ngàn, hoa đỏ rực, củ mập nần nẫn, “Hồi bé, trẻ con hái hoa dong hút mật ngọt lịm, bọn con gái kết tràng hoa làm vương miện nàng tiên. Nhà nào trong bản cũng trồng dong, làm miến. Mùa thu hoạch, đàn bà con gái ríu rít đi đào dong, gùi về rửa sạch, bào thành bột, lại kéo nhau ra sông Nậm Cắt gánh nước về ngâm, lắng lọc lấy tinh bột, phơi nắng để làm miến. Nhưng, đất trồng dong của bản đã ở dưới lòng hồ thủy điện mất rồi. Danh miến dong quê tôi chỉ còn trong ký ức thôi”, chị Sâm tiếc nuối.

Vết tích bản làng, nhà cửa, cây cối, ruộng nương, niềm vui, nỗi buồn xưa cũ không còn, tất cả đã lắng xuống dưới lòng hồ.

Bản cũ mình ở đáy sông rồi! ảnh 1

Đập tràn hồ chứa Nậm Cắt.

Niềm vui bên sườn núi

Sông Nậm Cắt bị chặn dòng, tạo thành hồ nước rộng hàng nghìn mét vuông. Nước dâng cao chảy tràn qua mặt đập tạo thành dòng thác trắng xóa. Hệ thống kênh dẫn bê-tông kiên cố bám theo triền núi, nối đập tràn đến bể áp lực là hố móng thi công, vừa là đường vận chuyển vật liệu với một bên là vực sâu và đường dốc cực kỳ trơn trượt. Vì phải đáp ứng tiến độ, công trình được thi công ngay trong mùa mưa lũ, đối mặt với sự nguy hiểm từ những cơn lũ quét, đá tảng lăn khi sạt lở núi. Nước lũ, sạt đất đã từng phá tan những khối móng bê-tông khổng lồ…

Khởi công xây dựng, Nhà máy thủy điện Nậm Cắt đã nổi tiếng bởi ba cái nhất: vị trí đặt ở xã nghèo nhất huyện, huyện nghèo nhất tỉnh và tỉnh thì nghèo nhất nước. Có hai con đường từ thị xã Bắc Kạn đến xã Đôn Phong thì một đã bị trận lũ lớn giữa năm 2013 xóa sổ, còn lại là đường liên xã của huyện Bạch Thông, chỉ dài hơn chục cây số nhưng khúc khuỷu toàn góc cua tay áo, ổ voi, ổ gà, ở giữa gồ ghề như sống lưng khủng long.

Đường từng được trải nhựa, song sau vài trận lũ quét là trơ đá tảng cùng đất nhão nhoét. Đường vắng bóng người, lưu thông chỉ toàn xe tải gầm cao gắn bánh đặc chủng, chở sắn, dong riềng cho các cơ sở làm miến, thỉnh thoảng có đàn trâu béo tròn, đeo mõ lốc cốc, đủng đỉnh bước.

Bây giờ đường đã được sửa chữa, dễ đi hơn, nhưng vào mùa mưa lũ vẫn còn vài đoạn bị bong tróc, lồi lõm ổ trâu, ổ gà. Xe tải chở dong riềng vẫn nối đuôi qua lại. Dong hiện được đồng bào trồng ở nhiều địa danh khác. Họ đã có cuộc sống ấm no, thậm chí làm giàu từ cây dong. Danh tiếng và chất lượng đặc thù của miến dong địa phương đã được minh chứng bằng việc được Cục Sở hữu trí tuệ đã cấp Giấy chứng nhận “đăng ký chỉ dẫn địa lý số 00106” cho sản phẩm “miến dong Bắc Kạn”. Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Bắc Kạn là cơ quan quản lý chỉ dẫn địa lý này.

Gắn bó với dòng Nậm Cắt không chỉ cư dân của Bản Bung, Bản Pẻn, Bản Áng… mà còn có cán bộ, công nhân “bản thủy điện dầu khí”, là khu tập thể được gọi vui là “xóm Nậm Cắt”. Kỹ sư Hướng Văn Huấn, một trong những cán bộ kinh nghiệm vận hành nhà máy điện hiếm hoi, về đầu quân cho nhà máy thủy điện từ những ngày đầu tiên.

Hai vợ chồng đều là người Dao, cùng quê Bạch Thông được làm cùng nhau ở Nậm Cắt. Ôn kỷ niệm, vợ anh bâng khuâng: “Còn bé, tôi thường được bố cõng trên lưng và hát ru bằng lời hát giao duyên, nên giai điệu bài hát ngấm dần vào tiềm thức, đến khi lớn lên, đi hát cùng chúng bạn trong bản: “Thấy bông hoa nở bên bờ kia/Muốn sang hái mà không có thuyền/Anh muốn ngắt đừng lo anh ạ/Hái lá làm thuyền bơi sang đây”.

Nậm Cắt - dòng sông lạnh, từng gầm gào hung dữ khi mùa nước lũ, chảy lơ thơ khi mùa cạn bất thường, đã ngưng đọng một phần thân mình, rồi hòa vào sông Cầu thành dòng nước hai mầu xanh, cam, chảy về xuôi. Ôm vào lòng những dấu tích bản làng xưa, nước sông lạnh để lại nỗi buồn lâng lâng, xen lẫn niềm vui bừng sáng.

Sông Nậm Cắt có lưu vực dài tới 290km với hàng chục phụ lưu và lưu lượng nước lên đến 4,2 tỷ m3 nước/năm. Nhà máy thủy điện Nậm Cắt được xây dựng trên dòng sông Nậm Cắt đoạn chạy qua địa bàn xã Đôn Phong (huyện Bạch Thông, Bắc Kạn). Thủy điện Nậm Cắt là công trình duy nhất ở Việt Nam thi công ở độ cao trung bình khoảng 40m, với công suất lắp máy 3,2MW, hằng năm cung cấp gần 20 triệu kWh điện.